This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Cách làm gối thuốc phòng, chữa bệnh

Gối là vật dụng không thể thiếu với mỗi người. Có người thích dùng gối cao, gối thấp hoặc gối cứng, gối mềm, nhưng ít ai chú ý đến chất liệu làm gối có ảnh hưởng tốt hay xấu đến sức khỏe của mình. Với trẻ sơ sinh, với người già yếu, ốm đau bệnh tật thì chiếc gối là vật bất ly thân. Vậy ruột gối nên làm bằng gì cho thích hợp mỗi người để nằm ngủ ngon giấc và phòng chữa được bệnh?

Cách làm gối thuốc phòng, chữa bệnh 1

Gối độn viễn chí, hoa cúc, bạch chỉ an thần ích trí, ngủ ngon, trị đau đầu, giảm trí nhớ.

Thông thường, ruột gối hay độn bông gòn, vỏ đỗ, mút… Các chất liệu này có tính ấm, hợp với mùa lạnh, với người có chứng dương hư âm thịnh hay cảm thấy lạnh. Nhưng đến mùa hè, thời tiết nóng nực, nhất là đối với trẻ em thể chất thuần dương, khi cảm sốt hoặc người tăng huyết áp thì không nên dùng loại gối này. Khi ngủ, gối áp vào vùng chẩm gáy, đại não là nơi định vị của tim, phổi. Đầu là nơi hội tụ các kinh dương: thủ túc thái dương, thiếu dương và dương minh kinh. Mà bệnh tật thường thường hay phát sinh từ kinh dương, dương mạch. Vì vậy, tùy theo sức khỏe hay ốm đau bệnh tật, chúng ta có thể làm chiếc gối có vật liệu thích hợp:

- Gối độn hoa cúc: hoa cúc phơi khô trong râm độn làm gối. Hoa cúc tính lạnh, thanh nhiệt làm hạ hỏa bốc lên đầu gáy nhức đầu, đỏ mắt, cao huyết áp, ngủ trằn trọc. Làm gối cho trẻ có tác dụng làm mát đầu, ổn định thần kinh, sáng mắt.

- Gối bằng vỏ hạt đậu xanh: vỏ đậu phơi khô độn gối làm mát đầu, ngủ yên, thần kinh êm dịu, hạ huyết áp, bốc hỏa, nhức đầu, làm sáng mắt tĩnh tai.

- Gối độn thông thảo: thông thảo khô lượng vừa đủ để làm gối, thái thành sợi nhỏ, thiên ma 50g, độn làm gối. Tác dụng: chữa âm hư, can dương vượng gây cao huyết áp, nhức đầu chóng mặt, hoa mắt, suy nhược thần kinh.

- Gối độn bạch chỉ, lá hồng: bạch chỉ 200g, hoa cúc 750g, lá hồng tứ hồng 150g, độn làm gối. Tác dụng: trị tăng huyết áp, đau đầu, xơ cứng động mạch.

- Gối độn 4 vị thuốc bắc: quy bản (mai rùa), long cốt, viễn chí, thạch xương bồ, lượng bằng nhau độn làm gối. Tác dụng: trị tâm hay sợ, hồi hộp bất an, trấn tĩnh thần kinh, nâng cao khả năng miễn dịch, tăng trí nhớ, chữa chứng kinh giản, ra mồ hôi trộm, ngủ mơ màng mộng mị, đầu váng mắt hoa, thông các khiếu, sáng mắt thính tai.

- Gối bạc hà hoắc hương: bạc hà, hoắc hương khô lượng bằng nhau độn làm gối có mùi thơm giúp dễ ngủ.

- Gối độn viễn chí, hoa cúc, bạch chỉ: viễn chí 150g, bạch chỉ 200g, hoa cúc 750g độn làm gối. Tác dụng: an thần, ích trí, trị mất ngủ, trí nhớ giảm sút, hay giật mình, đau đầu, hay quên.

- Gối lô hội, bạch chỉ, hoa cúc: lô hội (nha đam) 200g, hoa cúc 750g, bạch chỉ 200g, tất cả nghiền nhỏ, cho vào túi vải rồi độn gối. Tác dụng: chữa tắc mạch máu não. Gối đầu lâu sẽ giảm hoặc hết bệnh.

- Gối phòng, chữa chảy máu não: hoa cúc 750g, bạch chỉ 200g, lá hồng tứ hồng 150g, cành dâu (dùng nhánh nhỏ phơi trong mát cho khô) 150g, cho tất cả vào túi vải độn gối, nằm lâu sẽ khỏi bệnh.

Lương y Minh Chánh

Kinh nghiệm dân gian trị chứng đau đầu

Bạch quả.

Đầu là nơi hội tụ của mọi phần dương, là nơi của não bộ, khí huyết của ngũ tạng lục phủ đều hội tụ ở đó nên ngoại cảm thời tà, nội thương tạng phủ đều có thể gây đau đầu. Bệnh do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra, nhưng không ngoài ngoại nhân (lục dâm): phong, hàn, thấp, nhiệt... và nội nhân (do thất tình) gây ra. Dân gian có nhiều bài thuốc trị bệnh này rất hiệu quả, xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo và áp dụng.

Nhân trần 30g. Sắc nước uống, mỗi ngày 2-3 lần.

Địa phủ tử 15g (cây rau chổi - Kochia scoparia), nghiền thành bột, thêm 1 thìa canh nước gừng uống với nước sôi để ấm.

Mạn kinh tử 6g, sắc lấy nước uống hằng ngày.

Lá sen 1 lá, trứng gà 2 quả, 1 lượng vừa phải đường đỏ, sắc nước uống mỗi ngày 2-3 lần (ăn trứng uống nước).

Hoàng kỳ 30g, thiên ma 10g. Sắc nước uống mỗi ngày 2 - 3 lần.

Đại hoàng (sao đến khói vàng bốc lên) 240g, xuyên khung 120g, tế tân 75g. Nghiền chung thành bột, trộn với mật làm viên to bằng hạt đậu xanh (tương đương 1g), mỗi lần 3-10g uống với nước sôi, ngày 2-3 lần.

Quả ngưu bàng 12g, thạch cao 12g, thảo quyết minh 12g. Nghiền chung thành bột, chia làm 2 lần trong ngày, uống với nước đun sôi để ấm.

Quy bản (yếm rùa) 30g, vỏ bào ngư (còn gọi là ốc cửu khổng) nung 30g, từ thạch 15g. Sắc nước uống mỗi ngày 2-3 lần

Sinh địa 15g, khổ sâm15g, hoàng cầm10g. Sắc nước uống mỗi ngày 1 thang chia 2 lần sáng tối.

Bột kiều mạch 60g, sao nóng, thêm dấm rồi sao lại, lúc còn nóng lấy vải bọc lại, đắp vào huyệt thái dương, khi nguội thì thay. Cần tránh gió.

Tân di (nụ hoa mộc lan khô) lượng vừa phải. Nghiền thành bột, hít vào khoang mũi, ngày 2-3 lần.

Gừng sống 1 củ, hùng hoàng một ít. Đem gừng thái thành miếng, lấy bột hùng hoàng rắc lên trên miếng gừng, ghép 2 miếng gừng lại với nhau, ngoài bọc giấy ướt, đặt lên trên bếp lửa cho nóng rồi dán vào huyệt thái dương.

Ma hoàng 6g, hạt dành dành 6g. Nghiền chung thành bột, lấy 1 ít cơm nguội và thuốc đắp lên huyệt thái dương.

Hạt dành dành 6g, thảo ô 6g. Nghiền thành bột, trộn với nước hành đắp lên huyệt thái dương.

Lá ngô đồng lượng vừa phải. Lấy lá sao chín đắp lên đầu.

Bạch phụ tử 3g, xuyên khung 3g, hành củ 15g. Nghiền bạch phụ tử và xuyên khung thành bột, thêm hành đã giã nát, bày ra giấy rồi dán vào huyệt thái dương khoảng 1 giờ sẽ khỏi đau.

Lá sen cho vị thuốc chữa đau đầu.

Nếu đau nửa đầu có thể dùng một trong các bài:

Rễ câu kỷ (tức địa cốt bì) 30-50g. Sắc nước uống, mỗi ngày 2-3lần.

Kinh giới 12g, đậu đen 12g, gừng sống 1 lát. Sắc nước uống mỗi ngày 1-2 lần.

Hạt ké đầu ngựa 10g, sắc lấy nước, uống ấm ngày 2-3 lần. Lưu ý kiêng thức ăn cay.

Quả ngưu bàng khô 36g, thạch cao sống 180g. Nghiền chung thành bột, mỗi lần uống 10-12g với nước sôi để ấm, ngày 3 lần.

Rễ ớt cay 10 cái, đường vừa đủ. Rễ ớt cay sắc lấy nước, cho thêm đường, uống mỗi ngày 1-2 lần.

Ngô thù du 10g, hoàng bá (sao nước muối) 10g. Sắc nước uống mỗi ngày 2-3 lần.

Hạ khô thảo 12g, củ gấu 10g, xuyên khung 10g. Sắc nước uống mỗi ngày 1 thang, uống liền 3 thang.

Liên kiều 10g, sinh địa 10g, xuyên khung 12g. Sắc nước uống mỗi ngày 2-3 lần.

Cóc mẳn 20g, xuyên khung 6g, thanh đại (bột chàm) 1g. Tất cả phơi khô, nghiền thành bột, thường xuyên hít bột này.

Cỏ nhọ nồi lượng vừa phải, giã nhỏ, lấy nước nhỏ vào mũi ngày 2-4 lần.

Náo dương hoa (hoa đỗ quyên) 3g, hạt phượng tiên hoa (cây bóng nước) 3g, thương truật 6g. Bỏ thuốc vào đáy bát, châm lửa cho cháy rồi hít khói của nó, đau bên trái thì hít lỗ mũi bên trái, đau bên phải thì hít lỗ mũi bên phải. Lượng thuốc trên chỉ dùng cho 1 lần, ngày hít 3 lần. Sau khi hít thấy có hơi mát xông thẳng vào trong mũi, đau sẽ giảm bớt.

Rễ uy linh tiên tươi (1 nắm, rửa sạch, rút gân rễ rồi giã nát, trộn với đường đắp lên chỗ đau.

Hạt thầu dầu 10g, nhũ hương 6g. Hạt thầu dầu bóc vỏ rồi cho nhũ hương vào giã chung làm bánh, đắp lên huyệt thái dương.

BS.CKII. Trần Lập Công

Bài thuốc trị xơ gan cổ trướng

Cổ trướng là một chứng bệnh nằm trong tứ chứng nan y của Đông y. Nguyên nhân gây ra bệnh rất đa dạng, tính chất bao trùm là hư chứng; hư trung hiệp thực (tà khí thực); do nội thương thất thường, ăn uống thực tích, lao lực quá sức và các chứng bệnh của hoàng đản, triệt ngược… gây ra. Bệnh “cổ trướng” được chia ra: Khí cổ, thuỷ cổ, huyết cổ, cổ trướng, nhiệt trướng, tỳ hư cổ trướng, tỳ thận hư cổ trướng và hàn trướng. Trong phạm vi cổ trướng, tuỳ theo từng nguyên nhân gây bệnh mà có các chứng trạng khác nhau:

Khí cổ

Triệu chứng: Ngực bụng đầy trướng, bụng phệ, da bụng dày, ngực tức sườn đau, hay ợ hơi, hay trung tiện. Tinh thần ảm đạm, u uất, hay bực tức, không muốn ăn uống. Nặng thì bụng phình to, da bụng dày, sắc xanh, ấn tay vào nổi lên ngay. Mạch trầm vô lực.

Bài thuốc: binh lang 16g, hậu phác 16g, mộc hương quảng 06g, đậu khấu nhân 8g, thanh bì 10g, trần bì 12g, đại phúc bì 12g, uất kim 16g, trạch tả 16g. Hậu phác cạo bỏ vỏ. Các vị trên sắc với 1.600ml nước, lọc bỏ bã lấy 300ml. Mộc hương quảng + thuốc sắc 30ml mài tan hết, cho vào thuốc sắc quấy đều. Chia làm 3-5 phần, uống trong ngày.

Thuỷ cổ

Triệu chứng: Bụng trướng to bè ra hai bên, da bụng mỏng, sáng, ấn lõm, ăn uống kém, chân tay gầy, sắc mặt vàng úa, chất lưỡi bệu, nhớt, rêu lưỡi trắng, đau bụng hoặc táo kết. Mạch trầm tế hoặc vi nhược.

Bài thuốc: hắc sửu 32g, tiểu hồi hương 8g, quảng mộc hương 6g. Hai vị hắc sửu và tiểu hồi hương sắc với 1.000ml nước, lọc bỏ bã lấy 200ml. Mộc hương quảng + thuốc sắc 40ml mài tan hết trộn lẫn quấy đều. Chia làm 2-3 phần, uống trong ngày.

Huyết cổ

Triệu chứng: Bụng trướng to, da bụng nổi gân hơi tía hoặc xanh, mệt mỏi, sắc mặt xanh sạm, chân, tay, mặt gầy, đại tiện phân đen, bóng, thối khẳm. Mạch trầm tế.

Bài thuốc: đương qui 12g, xích thược dược 10g, sinh địa hoàng 16g, quế tâm 6g, đào nhân 12g, phục linh 12g, hồng hoa 4g, chỉ xác 8g, sài hồ 8g, cam thảo 4g, bào khương 2g. Xích thược tẩm rượu, sinh địa hoàng tẩm rượu, đào nhân bỏ vỏ. Các vị trên sắc với 1.800ml nước, lọc bỏ bã lấy 300ml. Chia làm nhiều lần, uống trong ngày. Chia làm 3-5 phần, uống trong ngày.

Cổ trướng

Triệu chứng: Bụng to như cái trống, trướng đau, môi đỏ, mặt mày hốc hác, mắt lờ đờ nhợt nhạt, mửa nước trong, thích ăn đồ béo ngọt, lưỡi nhợt, bệu, rêu lưỡi có điểm xanh tím. Mạch tế sác.

Bài thuốc: bán hạ 12g, trần bì 6g, thanh bì 6g, chỉ xác 6g, la bạc tử 10g, cam thảo 4g, tử tô 6g, sa nhân 6g, nhục đậu khấu 4g, tam lăng 12g, nga truật 12g, binh lang 12g, quan quế 4g, bạch đậu khấu 4g, tất trừng già 6g, mộc hương quảng 2g, sinh khương 6g, đại táo 12g. Đại táo xé ra. Các vị trên sắc với 1.800ml nước, lọc bỏ bã lấy 300ml. Mộc hương quảng + thuốc sắc 30ml mài tan rồi hoà đều với thuốc sắc. Chia làm 3-5 phần, uống trong ngày.

Nhiệt trướng

Triệu chứng: Bụng trướng to, cứng, đau, cự án, phát sốt, miệng đắng, cổ khô, tiểu tiện vàng thẫm, sẻn, đại tiện bí, táo kết, lưỡi khô, chất lưỡi bệu, rêu lưỡi vàng nhợt. Mạch sác.

Bài thuốc: hoàng liên 12g, hoàng cầm 16g, hậu phác 12g, chỉ xác 10g, bán hạ 12g, phục linh 12g, bạch truật 12g, nhân sâm 4g, trư linh10g, trạch tả 12g, cam thảo 4g, can khương 2g. Hậu phác cạo bỏ vỏ, bán hạ chế, cam thảo chích. Các vị trên sắc với 1.800ml nước, lọc bỏ bã lấy 300ml. Chia làm 3-5 phần, uống trong ngày.

Tỳ hư cổ trướng

Triệu chứng: Bụng trướng, bụng đầy, ấn có khi mềm khi căng, thiện án, sôi bụng, sắc mặt vàng héo, tiếng nói nhỏ yếu, hơi thở ngắn, người mệt mỏi, gầy, mắt trắng, môi nhợt, chất lưỡi bệu, nhợt, đại tiện lỏng. Mạch trầm tế.

Bài thuốc: bạch truật 16g, phục linh 16g, hậu phác 16g, đại phúc bì 12g, thảo quả nhân 8g, mộc hương quảng 4g, mộc qua 16g, hắc phụ tử 8g, bào khương 4g, cam thảo 6g. Hậu phác cạo bỏ vỏ. Các vị trên sắc với 1.800ml nước, lọc bỏ bã lấy 300ml. Mộc hương quảng + thuốc sắc 30ml mài tan, hoà lẫn với thuốc sắc. Chia làm 3-5 phần, uống trong ngày.

Tỳ thận hư cổ trướng

Triệu chứng: Bụng đầy trướng, ấm ách sôi bụng khó chịu, không muốn ăn, đầu choáng mắt hoa, ù tai, đau lưng, mỏi gối, di tinh, ra mồ hôi, ngũ canh tiết tả. Mạch trầm tế.

Bài thuốc: nhân sâm 8g, can khương 12g, cam thảo 12g, bạch truật 12g, hắc phụ tử 10g. Các vị trên sắc với 1.500ml nước, lọc bỏ bã lấy 300ml. Chia làm 3-5 phần, uống trong ngày.

Hàn trướng

Triệu chứng: Bụng đầy trướng, ấm ách trong bụng, đau vùng hạ vị, chườm nóng đỡ đau, chân tay lạnh, lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, tiểu tiện trong ít, đại tiện phân nát, lỏng. Mạch trầm trì vô lực.

Bài thuốc: nhân sâm 8g, cam thảo 12g, can khương 12g, bạch truật 32g, ô dược 12g, chỉ thực 12g.

Chỉ thực nướng. Các vị trên sắc với 1.500ml nước, lọc bỏ bã lấy 300ml. Chia làm 3-5 phần, uống trong ngày.

BS. Trần Văn Nguyên

Phương thuốc thanh nhiệt giải độc

Bạch cương tàm.

Thanh nhiệt giải độc là những phương thuốc trị các chứng nhiệt độc thịnh, ung nhọt, đinh nhọt, phát ban, nóng sốt. Trên nguyên tắc là sử dụng các dược vật có công năng tả hỏa, giải độc để lập thành phương như hoàng liên giải độc thang; phổ tế tiêu độc ẩm; tả tâm thang; thanh ôn bại độc ẩm.

Sau đây xin dẫn cụ thể những phương trị liệu ấy để tham khảo và chọn lựa áp dụng cho thích hợp khi cần thiết.

Hoàng liên giải độc thang: Hoàng liên 8-12g, hoàng bá 8-12g, hoàng cầm 8-12g, chi tử 8-12g, sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần. Tác dụng tả hỏa giải độc.

Trong phương: hoàng liên là chủ dược, tác dụng tả hỏa ở tâm và trung tiêu. Hoàng cầm tả hỏa ở thượng tiêu, hoàng bá tả hỏa ở hạ tiêu. Chi tử hỗ trợ thông tả hỏa ở tam tiêu. Khi hợp 4 vị này sẽ công hiệu tả hỏa và giải độc thêm mạnh. Phương này thích hợp cho các chứng hỏa nhiệt thịnh ở tam tiêu.

Gia giảm: Nếu uất nhiệt vàng da, gia nhân trần, đại hoàng, làm tăng cường tiêu ứ giải độc. Song đối với ung nhọt, đinh độc giã nát đắp tại chỗ hoặc gia các vị giải độc khác kết hợp. Phương cũng có thể sử dụng trị chứng huyết độc, kiết lỵ, viêm phổi thuộc chứng hỏa độc thịnh. Với các chứng xuất huyết như thổ huyết, chảy máu cam, phát ban có huyết nhiệt cần gia các vị lương huyết. thanh nhiệt như huyền sâm, sinh địa, đơn bì, mao căn...

Cần lưu ý: Dùng thuốc trên để trị chứng nhiệt độc thịnh là chính vì các dược vật đều mang tính hàn, vị đắng nên dễ làm thương tổn tân dịch, do đó cần thận trọng với người có tổn thương tân dịch hoặc cần gia các dược vật tư âm thanh nhiệt.

Phổ tế tiêu độc ẩm: Phương có tác dụng thanh nhiệt giải độc, sơ phong tán tà. Được sử dụng trị chứng ung nhọt ở đầu mặt, bệnh quai bị, viêm amidal cấp, mà có biểu hiện sốt sợ lạnh, mồm khát, lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng pha vàng, mạch phù sác hoặc trầm sác có lực. Phương gồm hoàng cầm (tẩm rượu sao) 12-20g, hoàng liên 12-20g, trần bì 6-8g, huyền sâm 6-8g, bản lam căn 4-8g, ngưu bàng tử 4-6g, cương tằm 4-6g, sài hồ 8-12g, cam thảo 6-8g, liên kiều 4-8g, mã bột 4-6g, bạc hà 4-6g, thăng ma 4-6g. Các vị tán bột trộn mật làm hoàn hoặc sắc uống với liều gia giảm, ngày 1 thang, chia 3 lần. Lưu ý có phương không có bạc hà, có phương có nhân sâm 10g, có phương có đại hoàng.

Trong phương hoàng cầm và hoàng liên là chủ dược, tác dụng thanh tả nhiệt độc ở thượng tiêu đầu mặt. Huyền sâm, mã bột, bản lam căn, cát cánh, cam thảo thanh giải nhiệt độc ở đầu họng. Trần bì lý khí sơ thông ứ trệ; thăng ma. Sài hồ thăng dương, tán hỏa dẫn dược đưa lên đầu mặt.

Gia giảm: Quai bị có biến chứng viêm tinh hoàn, gia xuyên luyện tử, long đởm thảo để can nhiệt; kết hợp dùng rượu hạt gấc bôi ngoài rất tốt. Khí hư, người mệt mỏi, gia đảng sâm, để bổ khí. Táo bón, gia đại hoàng để tả nhiệt thông tiện.

Tả tâm thang: Đại hoàng 6g, hoàng cầm 12g, hoàng liên 8g. Sắc uống ngày 1 thang.

Phương có công hiệu tả hỏa, giải độc, trừ thấp, trị chứng tâm, vị hỏa thịnh gây nôn ra máu, chảy máu cam, táo bón, hoặc tích nhiệt ở tam tiêu, mắt đỏ, mồm lở, hay ung nhọt, thấp nhiệt, vàng da, ngực sườn đầy tức, rêu lưỡi vàng dày, mạch sác có lực.

Thanh ôn bại độc ẩm: Phương tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lương huyết, cứu âm. Dùng trị tất cả chứng hỏa nhiệt mà biểu hiện sốt cao, nóng bứt rứt, khát nước, nôn khan, đầu đau như búa bổ, hốt hoảng nói sảng hoặc phát ban nôn ra máu, chất lưỡi đỏ thẫm, mồ hôi, mạch trầm tế, hay trầm sác hoặc phù đại sác. Gồm sinh thạch cao 40-80g, sinh địa hoàng 16-20g, tê giác 2-4g, cát cánh 8-12g, huyền sâm 8-16g, đơn bì 8-12g, chi tử 8-16g, tri mẫu 8-12g, cam thảo 4-8g, hoàng cầm 8-12g, hoàng liên 4-12g, liên kiều 8-12g, trúc diệp tươi 8-12g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần (thạch cao sắc trước, tê giác tán bột mịn uống với nước thuốc).

BS. Hoàng Xuân Đại

Bài thuốc trị bệnh đau nửa đầu

Theo Đông y, hội chứng đau nửa đầu (Meniere) thuộc chứng huyễn vựng gồm triệu chứng chóng mặt là chủ yếu kết hợp với các chứng ù tai, nôn mửa. Sau đây là một số bài thuốc trị bệnh theo từng thể.

Thể can phong: do can hỏa vượng, can dương bốc lên, can thận âm hư gây ra. Thường gặp ở người tăng huyết áp, xơ cứng động mạch, rối loạn giao cảm… Biểu hiện: hoa mắt, chóng mặt, ù tai, miệng khô, đắng, nôn mửa, phiền táo, dễ cáu gắt, đầu lưỡi đỏ, mạch huyền, tế, đới sác. Phép chữa: bình can tức phong, tiềm dương, hoặc bổ thận âm, bổ can huyết. Dùng một trong các bài thuốc sau:

Bài 1: thục địa 16g, quy bản 12g, miết giáp 12g, câu kỷ tử 12g, long cốt 12g, mẫu lệ 18g, câu đằng 16g, táo nhân 12g. Sắc uống.

Bài 2:Lục vị hoàn gia giảm: thục địa 16g, sơn thù 8g, hoài sơn 12g; phục linh, trạch tả, đơn bì, bạch thược, đương quy, cúc hoa mỗi vị 8g; long cốt 12g; mẫu lệ 12g; câu kỷ tử 12g. Sắc uống.

Bài 3: Thiên ma câu đằng ẩm: thiên ma 12g, câu đằng 16g, phục linh 12g, tang ký sinh 16g, dạ giao đằng 12g, hoàng cầm 12g, chi tử 8g, thạch quyết minh 20g. Sắc uống.

Bài 4: Nếu huyết áp tăng gây chóng mặt, phiền táo, ngủ ít, tiểu tiện đỏ, táo bón, rêu lưỡi vàng, mạch huyền sác, biểu hiện của chứng can hỏa vượng thì dùng bài Long đởm tả can thanggia giảm: long đởm thảo 12g, hoàng cầm 12g, sơn chi 12g, sài hồ 12g, sinh địa 16g, đương quy 8g, mộc thông 12g, xa tiền 16g, trạch tả 8g, cam thảo 4g, địa long 12g, mẫu lệ sống 16g. Sắc uống.

Long nhãn tốt cho người bệnh đau nửa đầu thể huyết hư.

Thể huyết hư:

thường gặp ở người thiếu máu, xơ cứng động mạch. Biểu hiện: sắc mặt xanh hoặc vàng úa, hồi hộp, ngủ ít, mệt mỏi, hay quên, ăn kém, chất lưỡi nhạt ít rêu, chóng mặt, hoa mắt. Mạch tế nhược. Kinh nguyệt không đều, lượng kinh ít, sắc kinh nhạt. Phép chữa: dưỡng huyết, tức phong. Dùng một trong các bài thuốc sau:

Bài 1: thục địa 16g, xuyên khung 12g, kỷ tử 12g, hà thủ ô 16g, tang ký sinh 16g, ngưu tất 12g, long nhãn 12g, cỏ nhọ nồi 12g, hoài sơn 12g. Sắc uống.

Bài 2: Tứ vật thang gia giảm: thục địa 12g, bạch thược 12g, xuyên khung 8g, đương quy 12g, tang ký sinh 16g, kỷ tử 12g, long nhãn 12g, hà thủ ô 16g, a giao 8g, ngưu tất 12g. Sắc uống.

Bài 3: Bát trân thang gia giảm: thục địa 12g, bạch thược 12g, xuyên khung 8g, đương quy 8g, đẳng sâm 16g, bạch truật 12g, phục linh 8g, cam thảo 4g, địa long 12g, mẫu lệ sống 16g, thạch quyết minh 20g, tang ký sinh 16g. Sắc uống.

Bài 4: Ngũ vị tử thang: ngũ vị tử 8g, toan táo nhân 12g, hoài sơn 12g, long nhãn 12g, đương quy 8g. Sắc uống.

Thể hàn thấp: Biểu hiện: người béo trệ, chóng mặt, hoa mắt, lợm giọng, buồn nôn, ngủ hay mê, ăn kém, sáng hay khạc ra đờm, miệng nhạt, lưỡi bệu, rêu dính, mạch hoạt. Phép chữa: hòa đàm trừ thấp. Dùng bài Nhị trần thang gia giảm: trần bì 8g, bán hạ chế 8g, phục linh 8g, cam thảo 4g. Sắc uống.

- Nếu miệng đắng, lưỡi khô, tiểu vàng, phiền táo, đại tiện táo thêm trúc nhự 8g, chỉ thực 12g, bạch thược 12g, địa long 8g, thạch xương bồ 8g.

- Nếu rêu lưỡi trắng dính, đại tiện lỏng, miệng không khát, thêm đẳng sâm 16g, bạch truật 12g, trạch tả 8g.

Kết hợp day bấm các huyệt sau:

- Nội quan: từ cổ tay phía lòng bàn tay đo lên 2 tấc, cách 2 ngón tay 2 và 3.

- Lao cung: từ khe giữa ngón tay thứ 3 và thứ 4 kéo thẳng xuống giữa lòng bàn tay.

- Thiên lịch: trên huyệt dương khê 3 tấc.

- Phong trì: phía sau tai, chỗ lõm ở chân tóc.

- Định huyễn: từ phong trì đo lên 1 thốn.

Chủ yếu là day bấm 2 huyệt lao cung và thiên lịch có tác dụng tốt trong điều trị bệnh. Phối hợp tất cả các huyệt có tác dụng thanh nhiệt ở lục phủ ngũ tạng, thanh tâm hỏa, trừ thấp nhiệt, lương huyết, định tâm, an thần, thông mạch lạc, trị đau đầu, ù tai, đau các dây thần kinh, có tác dụng tốt trong phòng và trị bệnh đau nửa đầu.

Lương y Minh Chánh

Đông y điều trị mất tiếng, khản tiếng

Theo y học cổ truyền "phế là cửa của âm thanh, thận là gốc của âm thanh" (phế vi thanh âm chi môn, thận vi thanh môn chi căn). Như vậy mất tiếng có liên quan đến hai tạng phế và thận.

Về nguyên nhân bệnh có ngoại cảm gây mất tiếng và nội thương gây mất tiếng. Ngoại cảm gây mất tiếng thường là chứng thực, bệnh mới, nội thương gây mất tiếng thường do tinh khí hư, bệnh lâu là chứng hư. Ngoài ra hò hét, gào thét quá mức làm tổn thương phế khí cũng gây mất tiếng.

Về điều trị nếu do ngoại tà thì phải sơ tà, nếu do nội thương thì phải bổ hư.

Mất tiếng có nhiều thể và chứng khác nhau, căn cứ vào thể, chứng cụ thể mà dùng các bài thuốc thích hợp như dưới đây:

Chứng thực

Thể mất tiếng do cảm phải phong hàn

Triệu chứng: Tiếng khản, ho, sốt, mũi tắc, tiếng thở phô, mạch phù, rêu lưỡi mỏng trắng.

Phép điều trị: Sơ tán phong hàn, tuyên phế khí.

Bài 1: Ma hoàng 8g, hạnh nhân 12g, cam thảo 6g, kinh giới 12g, tiền hồ 12g, bối mẫu 12g, trần bì 8g, cát cánh 6g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần sau bữa ăn.

Bài 2: Hoài sơn 16g, thục địa 16g, sơn thù 8g, phục linh 12g, mẫu đơn bì 6g, trạch tả 8g.

Bài 3: Lá tía tô 12g, kinh giới 8g, gừng tươi 8g, lá hẹ 12g, lá xương sông 12g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần sau bữa ăn.

Thể mất tiếng do hàn tà bao vây nhiệt, khí phận bị bế tắc

Triệu chứng: Như ở phong hàn, thêm họng đau, miệng khát, rêu lưỡi vàng, mạch phù sác.

Phép điều trị: Sơ tán ngoại hàn, thanh trừ lý nhiệt.

Bài thuốc: Ma hoàng 12g, hạnh nhân 12g, cam thảo 8g, thạch cao 24g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần sau bữa ăn.

Thể mất tiếng do phong tà hóa nhiệt đốt phế kim

Triệu chứng: Mất tiếng họng đau, mình nóng, ho, miệng khô, khát nước, rêu lưỡi vàng, mạch sác.

Phép điều trị: Thanh hỏa lợi hầu họng.

Bài thuốc: Cát cánh 12g, chi tử 10g, hoàng cầm 8g, tang bạch bì 8g, cam thảo 8g, tiền hồ 10g, tri mẫu 12g, bối mẫu 10g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần sau bữa ăn.

Thể mất tiếng do đờm nhiệt giao trở

Triệu chứng: Tiếng nặng khàn, đờm nhiều, dính, vàng, miệng đắng họng khô, rêu lưỡi vàng cáu, mạch hoạt sác.

Phép điều trị: Thanh phế hóa đờm, lợi hầu họng.

Bài thuốc: Bối mẫu 12g, tri mẫu 10g, cam thảo 8g, cát cánh 12g, xương bồ 12g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần sau bữa ăn.

Chứng hư

Thể mất tiếng do phế táo tân dịch ít

Triệu chứng: mồm họng khô, họng ngứa đau hoặc ho khan, tiếng khàn nói không ra tiếng, lưỡi đỏ, mạch sác.

Phép điều trị: Thanh phế nhuận táo.

Bài thuốc: Tang diệp 12g, nhân sâm 4g, ma nhân 6g, mạch môn 12g, tỳ bà diệp 10g, thạch cao 12g, cam thảo 6g, a giao 8g, hạnh nhân 8g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.

Thể mất tiếng do thận âm bất túc

Triệu chứng: Mất tiếng, họng khô, hư phiền mất ngủ, lưng mỏi, gối yếu, nặng thì tai ù, ngũ tâm nóng, lưỡi đỏ, mạch hư sác.

Phép điều trị: Tư dưỡng thận âm.

Bài thuốc: Thục địa 16g, sơn thù 12g, trạch tả 12g, phục linh 12g, đan bì 12g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần sau bữa ăn.

Thể mất tiếng do phế âm hư

Triệu chứng: Mất tiếng, khản tiếng do ho lâu.

Phép điều trị: Bổ phế chỉ khái.

Bài thuốc: Sinh địa 12g, thục địa 12g, mạch môn 12g, bách hợp 10g, bạch thược 12g, đương quy 8g, bối mẫu 12g, cam thảo 6g, huyền sâm 12g, cát cánh 10g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần sau bữa ăn.

Ngoài việc dùng thuốc có thể dùng các món ăn - bài thuốc đơn giản để chữa mất tiếng, khản tiếng.

- Trần bì 10g, ô mai 3g. Sắc lấy 2 nước hòa chung, chia uống 2 lần trong ngày vào sáng và tối. Mỗi ngày 1 thang. Tác dụng sinh tân chỉ khát, tiêu đàm thông họng. Trị khản tiếng, mất tiếng.

- Lá kim châm 30g, mật ong 15g. Thêm 1 ly nước nấu sôi, cho thêm mật ong quấy đều, chia 3-4 lần uống hết trong ngày.

Công dụng: Giải độc, nhuận táo, thanh giọng, trị khàn tiếng, mất tiếng.

- Củ năn rửa gọt bỏ vỏ, giã nát vắt lấy nước, uống nguội tùy thích.

Mã thầy (củ năn)

Thanh nhiệt, giải độc, sinh tân giải khát, khai vị tiêu thực, nhuận táo, tiêu đàm thông họng. Trị khàn tiếng, mất tiếng, đau họng do phổi nóng, đàm vàng, táo bón.

- Củ cải 1 củ, bồ kết 3g. Củ cải cắt miếng, sắc nước cùng bồ kết, vớt bỏ bồ kết, ăn cả xác lẫn nước.

Khai khứu thông tý, nhuận phế tiêu đàm. Trị khàn tiếng, mất tiếng.

- Trứng gà 1 quả, giấm 250ml. Trứng rửa sạch đặt trong nồi đất thêm giấm nấu chín, lột bỏ vỏ, cho trở lại vào nồi, nấu thêm 15 phút, ngày 1 lần, ăn trứng uống giấm.

Công dụng: Thích hợp cho chứng mất tiếng, khàn tiếng do ho nhiều, ho dữ, dẫn tới viêm dây thanh cấp tính.

Lương y Vũ Quốc Trung

Chữa chứng bí tiểu ở phụ nữ mang thai

Bạch truật.

Phụ nữ có thai, vào tháng thứ 7-8 vẫn ăn uống, ngủ và đi lại bình thường, nhưng bí tiểu tiện nếu bị nặng thì bụng dưới trướng căng, trong lòng bực bội, không nằm được, y học cổ truyền gọi bệnh "Bào chuyển".

Nguyên nhân là do cổ bàng quang (niệu đạo) bị chèn ép làm bí tiểu tiện. Bệnh này có hư, có thực với các chứng trạng khác nhau tùy thể bệnh mà dùng bài thuốc thích hợp.

Chứng hư: có 2 thể

Thể khí hư: Do thể chất yếu đuối, khí trung tiêu suy kém không nâng được thai lên, để nén xuống bàng quang gây bí đái hoặc do phế khí hư yếu không thấm xuống bàng quang được làm cho thuỷ đạo không thông lợi gây bí đái. Biểu hiện là đi đái từng giọt, không thông hoặc đái luôn nhưng ít, bụng trướng, căng đau, đoản khí, hồi hộp... Trong trường hợp này cần uống thuốc để bổ khí, thăng đề.

Bài thuốc: Đương quy 8g, bạch thược 8g, nhân sâm 4g, bạch truật 12g, trần bì 6g, thăng ma 4g, thục địa 8g, xuyên khung 4g. Sắc uống ngày một thang.

Thể thận hư: Thận khí bất túc (không đầy đủ) không đủ để làm ấm dương khí của bàng quang dẫn tới công năng khí hoá bị ảnh hưởng gây bí tiểu tiện. Biểu hiện là tiểu tiện không thông, bụng dưới đầy trướng, căng đau, nằm không được, chân phù, người mệt mỏi, đại tiện lỏng...

Trong trường hợp này phải uống thuốc để ôn thận (làm ấm thận) hoà khí và thông thủy.

Bài thuốc: Sinh địa 12g, hoài sơn 12g, sơn thù 12g, trạch tả 8g, phục linh 8g, đan bì 8g, đan bì 8g, quế chi 4g, phụ tử 4g.

Chứng thực: có 2 thể.

Thể thấp nhiệt: Do lo lắng, uất giận hoặc do ăn nhiều đồ ăn béo ngọt, uất lâu hoá nhiệt làm thấp nhiệt dồn xuống bàng quang, nhiệt uất, khí kết làm cho thuỷ (nước) không thông lợi. Biểu hiện là bí đái, tiểu tiện vàng, són, bụng dưới căng trướng, đau, ngồi đứng không yên, sắc mặt đỏ, tâm phiền, đại tiện không thông khoái... Trong trường hợp này phải thanh nhiệt, trừ thấp.

Bài thuốc: Hoàng liên 12g, hoàng bá 12g, hoàng cầm 12g, hoạt thạch 12g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.

Thể khí trệ: Do ăn quá no hoặc nín đái lâu làm cho khí uất trệ lại gây bí tiểu tiện. Biểu hiện là bỗng nhiên bí đái, hoặc đái không thông, bụng dưới căng trướng, đau, trong lòng bứt rứt, không nằm được, vẫn ăn uống được bình thường. Trong trường hợp này phải điều khí, hành trệ.

Bài thuốc: Trần bì 4g, phục linh 4g, bán hạ 4g, cát cánh 4g, đại phúc bì 4g, tô ngạnh 4g, chỉ xác 4g, bạch truật 4g, chi tử 4g, cam thảo 5g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2 lần trong ngày.

Cần lưu ý: Giữ tinh thần thư thái, thoải mái, ăn uống điều độ, đủ chất không quá no, quá đói. Hằng ngày đi lại, vận động nhẹ nhàng. Buổi tối không uống nhiều nước.

Lương y Hoài Vũ

Bài thuốc trị bí tiểu tiện

Bí tiểu tiện Đông y gọi là lung bế. Nguyên nhân dẫn đến lung bế có thể là do thấp nhiệt, do huyết lâm, thạch lâm, hoặc do các cơ quan lân cận chèn ép làm cho niệu đạo bị bế tắc. Để điều trị, Đông y có các bài thuốc hiệu quả theo từng thể lâm sàng như sau:

Bí tiểu do thấp nhiệt: Người bệnh có biểu hiện đái buốt đái dắt, nước tiểu đỏ, cảm giác nóng rát ở bàng quang và niệu đạo; thường kèm theo đau đầu, đau lưng, sốt, miệng đắng, rêu lưỡi vàng… Phép trị là thanh nhiệt lợi thấp, thông tiểu. Dùng một trong các bài:

Bài 1:

hương nhu trắng 16g, cỏ mần trầu 16g, ngân hoa 10g, liên kiều 12g, sinh địa 12g, mã đề thảo 16g, râu ngô 10g. Sắc uống ngày 1 thang. Công dụng: thanh nhiệt lợi tiểu hóa thấp.

Bài 2: hạ liên châu 16g, bạch mao căn 16g, thổ phục linh 20g, mộc thông 12g, rau dấp cá 16g, mã đề thảo 16g, tang diệp 20g, vỏ bí ngô 16g, mướp đắng 16g, cam thảo đất 16g. Sắc uống ngày 1 thang. Công dụng: thanh nhiệt, chống viêm, lợi tiểu.

Bí tiểu do sỏi:Người bệnh có biểu hiện bí tiểu, đau lưng, đau ở bộ phận sinh dục và lan ra vùng lân cận. Nước tiểu đỏ có khi lẫn máu, có trường hợp đau quặn, không đi tiểu được làm người bệnh rất khó chịu. Phép trị là chống viêm, bài thạch (làm tan sỏi và tống sỏi ra ngoài). Dùng một trong các bài:

Bài 1: kim tiền thảo 20g, râu ngô 16g, trinh nữ 20g, rễ bí ngô 16g, trúc diệp 20g, rau ngổ 16g, ích mẫu 16g. Sắc uống ngày 1 thang. Công dụng: chống viêm, thông tiểu, bài thạch.

Bài 2: mướp đắng 20g, trinh nữ 20g, rễ cỏ tranh 20g, kê nội kim 10g, cỏ xước 16g, dấp cá 20g, ngân hoa 10g, hương nhu trắng 16g, hải kim sa 16g, rau ngổ 20g. Sắc uống ngày 1 thang. Công dụng: chống viêm, bài thạch.

Bí tiểu do sang chấn:

Người bệnh có biểu hiện tiểu buốt, gắt, nước tiểu vàng, có khi màu hồng lẫn máu, đau tức vùng hạ vị, rêu lưỡi trắng, mạch hoạt. Phép trị là lợi niệu, hoạt huyết, bổ trung ích khí. Dùng bài thuốc: sinh địa 12g, thông thảo 6g, trúc diệp 16g, tam thất 12g, sơn chi 12g, hoàng kỳ 12g, bạch truật 12g, sài hồ 12g, đinh lăng 16g, xa tiền 10g. Sắc uống ngày 1 thang. Công dụng: bổ khí hoạt huyết, thông tiểu, giảm đau.

Bí tiểu sau phẫu thuật: Biểu hiện bàng quang căng đầy, đau tức, bí tiểu, các cơ và thần kinh ở vùng tiểu khung bị chấn động dẫn đến co cứng làm cho niệu đạo bị co thắt gây bế tắc. Người bệnh đau tức, bí tiểu, không dám cử động mạnh. Phép trị là thư giãn cơ, chống co thắt, phục hồi chức năng của thần kinh, lập lại cân bằng âm dương. Dùng bài thuốc: cát căn 20g, hà thủ ô (chế) 16g, chè khô 16g, ba kích 10g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần. Công dụng: chống co thắt, kích thích và phục hồi chức năng chỉ đạo của thần kinh trung ương.

Lưu ý:trường hợp này không được dùng thuốc lợi tiểu.

Lương y Trịnh Văn Sỹ

Bài thuốc giúp phòng, trị bệnh vẩy nến

Vẩy nến là một bệnh ngoài da biểu hiện bằng những chấm, vết hoặc mảng; thường hình tròn, ranh giới rõ rệt, gồ cao hơn mặt da; với 2 loại tổn thương cơ bản: lớp vẩy màu trắng đục như xà cừ, khô, dễ vụn, cạo ra như bột trắng; thành từng lớp, gồ cao hơn mặt da, bong lớp này lớp khác lại đùn lên. Nền đỏ: làm nền cho lớp vẩy, có khi ăn lan xung quanh lớp vẩy, vết đỏ ranh giới rõ rệt, khô, hơi cộm, ấn kính thì lặn.

Trong lâm sàng, người ta phân biệt thành các thể: thể chấm, thể giọt, thể đồng tiền, thể mảng và 2 thể biến chứng là vẩy nến đỏ da và vẩy nến khớp.

YHCT gọi vẩy nến là bạch sang, tùng bì tiễn; là một bệnh ngoài da mạn tính, hay tái phát. Bệnh hay phát vào mùa đông, ở da đầu và mặt, tứ chi; nặng có thể phát ra toàn thân, có thể kèm theo sưng các khớp tay chân. Nguyên nhân là do huyết nhiệt lại gặp phải phong mà gây bệnh ở ngoài da, phong làm huyết táo không dinh dưỡng da gây bệnh vẩy nến. Sau đây là một số bài thuốc trị theo từng thể.

Khô phàn (phèn chua phi) là 1 vị thuốc trong bài thuốc bôi tại chỗ trị vẩy nến.

Thể phong huyết nhiệt

Tại nơi tổn thương xuất hiện những nốt chẩn, nhiều, liên tục, lâu ngày to dần, màu hồng tươi, người bệnh ngứa nhiều. Phương pháp chữa là khu phong, thanh nhiệt, lương huyết. Dùng một trong các bài:

Bài 1: hòe hoa, sinh địa, thạch cao mỗi vị 20g; thổ phục linh, kim ngân hoa, ké đầu ngựa, hy thiêm, cam thảo đất mỗi vị 16g; cây cứt lợn 12g. Sắc uống.

Bài 2. Hòe hoa thang gia giảm: hòe hoa (dùng sống), sinh địa, thổ phục linh, thạch cao mỗi vị 40g; tử thảo, thăng ma, địa phu tử mỗi vị 12g, chích thảo 4g, ké đầu ngựa 20g. Sắc uống.

Thể phong huyết táo

Tại nơi tổn thương, những nốt ban cũ màu hơi đỏ, xuất hiện những nốt ban chẩn mới, ngứa, mặt da khô. Phương pháp chữa: Dưỡng huyết nhuận táo, khu phong. Dùng một trong các bài:

Bài 1: hà thủ ô 20g, đương quy 20g, khương hoạt 16g, thổ phục linh 40g, ké đầu ngựa 16g, sinh địa 16g, huyền sâm 12g, uy linh tiên 12g. Sắc uống.

Bài 2: huyền sâm, kim ngân, sinh địa, ké đầu ngựa, hà thủ ô, vừng đen mỗi vị 12g. Sắc uống.

Thuốc dùng tại chỗ

Bài 1: hỏa tiêu (muối), khô phàn, phác tiêu mỗi vị 5g, dã cúc hoa 12g. Nấu nước, lau rửa mỗi ngày 1 lần.

Bài 2: Có thể kết hợp các thuốc làm dịu da, bong vẩy nhẹ: dầu kẽm 5%, mỡ ichtyol 5%, mỡ salicylic 2% trong thời kỳ bệnh vượng phát hoặc mỡ diêm sinh 10%, mỡ chrysophalic 5% (trong thể mảng cố thủ).

Lương y Thảo Nguyên

Giúp cơ thể luôn tỏa hương thơm

Từ ngàn xưa, con người có bí quyết làm đẹp da bằng thảo dược, đặc biệt hơn khi tắm trong những dược thảo này thì những mệt mỏi, căng thẳng đều tan biến và cơ thể luôn toả mùi hương. Chúng ta có thể sử dụng một số thảo dược như hoa cỏ hay trái cây trong lúc tắm không chỉ đơn thuần là "Ướp hương cơ thể", đó còn là một phương thức trị liệu và làm đẹp độc đáo. Các hương liệu của hoa cỏ và trái cây không những có tác dụng dưỡng da, giúp bỏ đi các tế bào chết mà còn có tác dụng lưu thông khí huyết, giải toả căng thẳng thần kinh. Đây là một biện pháp không tốn kém về kinh tế mà còn được khoẻ mạnh và tăng thêm vẻ đẹp của làn da.

- Làm sạch cơ thể: Sử dụng bạc hà, ngải cứu, kinh giới, cỏ tranh, cỏ mật, cây mùi già... nấu nước tắm. Ngoài việc tạo mùi thơm cho cơ thể còn làm se khít lỗ chân lông, kích thích sản sinh lớp tế bào mới, giúp cơ thể sạch sẽ và tràn đầy sinh lực.

- Dưỡng ẩm cho da: Hoa hồng trắng, hoa sen đun nước để tắm... là những liệu pháp cung cấp độ ẩm tuyệt vời cho da bởi chúng cung cấp nước, khoáng chất và vitamin. Bên cạnh đó các loài hoa hồng, hoa sen... còn có tác dụng làn da tươi sáng, giảm mụn nhọt, lưu thông khí huyết, thư giãn cơ bắp, thanh nhiệt, giải cảm và giúp cho giấc ngủ ngon hơn.

Làm da mềm và mịn đẹp

Bài 1: Lấy cánh của 5 bông hoa hồng rửa sạch, nghiền nát, trộn với 3 thìa mật ong và nửa bát nước sạch. Bôi đều hỗn hợp này lên toàn thân, sau đó tắm lại bằng nước ấm. Thực hiện đều đặn 1 lần/ tuần sẽ mang lại làn da sáng và mịn màng.

Bài 2: Lấy 10 bông cúc nhỏ, 2 bát cánh hoa hồng vò nát, nước cốt của một quả chanh, nửa bát cánh hoa nhài. Vò nát tất cả các cánh hoa vào tắm với nước ấm. Khi tắm thả lỏng cơ thể và tắm, thực hiện 3 lần/tuần bạn sẽ có làn da mềm mại, mượt mà và trẻ trung.

Giúp da trắng hồng, bóng mịn

Bài 1: Lấy lá trà xanh vò nát, đun sôi sau đó hòa vào bồn tắm. Ngâm mình trong đó khoảng 30 phút mỗi ngày, các nguyên tố trong trà xanh sẽ giúp thanh tẩy tế bào chết làm da sáng bóng, trắng mịn và làm giảm những mụn cám phía lưng.

Bài 2: Đun một ấm nước sôi, cho thì là vào ngâm (như pha trà), sau 10 phút lấy nước dùng rửa mặt sẽ làm mặt sạch và thư giãn. Thân và lá thì là cắt nhỏ cho vào túi vải thưa đem đun lên để tắm sẽ làm ấm người, tinh thần phấn chấn, tẩy sạch da và làm da mát dịu.

Hãy hái những chùm lá thông xanh, rửa sạch rồi nấu nước nóng và ngâm mình trong đó thật lâu để cơ thể được kích thích tái sinh những tế bào mới, thanh lọc khỏi da chất độc trong cơ thể. Nên tắm vào buổi sáng hoặc trước khi đi dự tiệc và dịp đầu năm mới. Lá cây thông là biểu tượng của sự tươi mới và tắm lá thông mang lại sự tươi mát.

Bài 3: Lấy khoảng 50g cánh hoa hồng, ngâm với 1 lít nước sôi, sau đó bỏ bã, pha dung dịch này với nước cốt của 2 quả chanh, hòa vào nước tắm ấm sẽ giúp làn da phục hồi sự cân bằng giữa axit và kiềm, giúp cơ thể thoải mái và làm da trắng hồng.

Bài 4: Xay nhuyễn vỏ 3 quả cam sau đó trộn với 150ml mật ong, dùng hỗn hợp này thoa đều lên da, sau đó massage toàn thân theo hình vòng tròn, để khô khoảng 10 phút, tắm lại bằng nước ấm có tác dụng đẹp da, lưu thông huyết mạch.

tắm thơm Tắm hoa.

Một số loại thảo dược có thể kết hợp để tắm

Tinh dầu chanh: làm dịu, mát da, tăng đề kháng cho da.

Lá bạc hà: Làm da tươi sáng, khỏe mạnh, hồng hào và kháng khuẩn.

Hoa cúc: Làm mát da và chống viêm chân lông ở da.

Ngải cứu: Giúp da khỏe mạnh và tươi sáng hơn.

Kinh giới: Làm dịu mát da, phục hồi da và thư giãn.

Cỏ xạ hương: Làm sạch da, giải độc da và làm da tươi tắn

Bên cạnh đó, hoa đào cũng rất có tác dụng trong việc tái tạo và làm giảm các nếp nhăn. Hương thơm của hoa cúc trắng làm ổn định huyết áp, thường được sử dụng làm hoa tắm chủ yếu từ cuối thu sang đầu xuân.

Hãy bắt đầu ngày mới và kết thúc mỗi ngày bằng việc "tắm thơm" để có làn da thơm mềm quyến rũ và một tinh thần thư thái.

Thạc sĩ Nguyễn Sơn

Bài thuốc chữa viêm họng

Viêm họng là hiện tượng yết hầu sưng đau, lúc đầu có thể thấy ngứa họng, khạc nhổ, kèm theo sốt hoặc tiết nhiều đờm rãi. Nếu nặng không chữa kịp thời yết hầu nghẹn đau, ăn uống khó khăn, họng sưng đỏ, nuốt nước bọt cũng đau, lưỡi đỏ hoặc hồng nhợt.

Viem hong là hiện tượng yết hầu sưng đau, lúc đầu có thể thấy ngứa họng, khạc nhổ, kèm theo sốt hoặc tiết nhiều đờm rãi. Nếu nặng không chữa kịp thời yết hầu nghẹn đau, ăn uống khó khăn, họng sưng đỏ, nuốt nước bọt cũng đau, lưỡi đỏ hoặc hồng nhợt.

Y học cổ truyền có nhiều cách chữa viêm họng từ bài thuốc điều trị theo từng thể bệnh như sau:

Ngoại cảm phong hàn

- Triệu chứng viêm họng: ngạt mũi, nặng tiếng, người ớn lạnh, không mồ hôi, cổ họng hơi sưng, nuốt thấy vướng, đau, kèm theo đau đầu, sốt vừa, sợ gió, đau mỏi thân mình, chán ăn; mạch phù hoãn.

- Bài thuốc “Kinh phòng bại độc tán”: kinh giới, phòng phong, độc hoạt, sài hồ, tiền hồ, xuyên khung, chỉ xác, cát cánh, phục linh, cam thảo, khương hoạt mỗi vị 12g. Cách dùng: Các vị trên + 7 lát gừng + 10 lá bạc hà và 1.200ml nước, sắc lọc bỏ bã lấy 120ml. Ngày uống 1 thang chia 5 lần.

- Thuốc nhai ngậm: xạ can lá hoặc củ tươi vừa 1 miếng + sinh khương 1 miếng nhai nuốt nước bỏ bã, ngày 4- 5 lần.

Ngoại cảm phải dịch độc thời khí

- Triệu chứng : trong họng ngứa đau, khô, sưng đỏ, nuốt khó ăn hay nghẹn, thích uống nước lạnh, sốt cao, khát; mạch sác.

- Bài thuốc “Thanh yết lợi cách thang”: hoàng liên 8g; cam thảo 10g; nhân sâm 10g; bạch linh, hoàng cầm, ngưu bàng tử, phòng phong, bạch thược, thăng ma, cát cánh mỗi vị 12g.

Cách dùng: các vị trên + 7 lát gừng và 1.200ml nước, sắc lọc bỏ bã lấy 120ml. Ngày uống 1 thang chia đều 5 lần.

Thuốc nhai ngậm: lá xạ can 3 miếng + hoắc hương 3 lá + sinh khương 1 miếng nhai nuốt nước bỏ bã, ngày 4 - 5 lần.

Kinh dương minh tích nhiệt

- Triệu chứng: sốt, sợ nóng, họng sưng đỏ, đau, nóng cảm giác như đốt ở trong họng, người mệt mỏi, háo khát, bồn chồn trong bụng, tiểu tiện vàng, đại tiện táo, mạch hồng đại.

- Bài thuốc “Lương cách tán”: hoàng cầm 10g, chi tử 10g, bạc hà diệp 10g, liên kiều 10g, đại hoàng 20g, mang tiêu 20g, cam thảo 20g.

Cách dùng: các vị trên (trừ mang tiêu, bạc hà diệp) sao giòn tán nhỏ, trộn mang tiêu tán mịn tinh. Mỗi ngày uống 4 lần, mỗi lần 10g với nước trúc diệp, bạc hà diệp hoặc mật ong. Trẻ em thì tùy tuổi mà cho liều lượng thích hợp.

- Thuốc nhai ngậm: lá húng chanh 3 lá + sơn đậu căn 3 miếng nhai nuốt nước bỏ bã, ngày 5 - 6 lần.

Thể đàm hoả

- Triệu chứng: Yết hầu sưng, đau, nuốt nước bọt đau, người ậm ạch khó chịu, lợm giọng buồn nôn, ăn uống đau nghẹn khó nuốt, ngại nói, nặng thì khò khè, khó thở, tâm phiền; mạch hoạt sác.

- Bài thuốc “Địch đàm thang”: nhân sâm 8g, trúc nhự 8g, thạch xương bồ 10g, cam thảo 10g, đởm tinh 10g, chỉ thực 10g, quất hồng bì 16g, phục linh 16g, bán hạ 20g.

Cách dùng: bán hạ khương chế, trần bì khứ bạch. Các vị trên + 5 lát gừng và 1.200ml nước, sắc lọc bỏ bã lấy 120ml. Ngày uống 1 thang chia đều 5 lần.

Thể khí hư

- Triệu chứng: họng hơi sưng mà khô, đau, nhức nuốt nước bọt đau, ăn uống đau nghẹn khó nuốt, đau nhiều vào lúc gần trưa, đại tiện phân lỏng, chân tay mềm nhẽo, mạch hư nhược.

- Bài thuốc “Bổ trung ích khí thang gia giảm”: cam thảo 10g, nhân sâm 12g, thăng ma 12g, trần bì 12g, sài hồ 12g, đương quy 12g, bạch truật 12g, thiên hoa phấn 12g, hoàng kỳ 24g.

Cách dùng: hoàng kỳ mật sao; cam thảo chích; nhân sâm bỏ cuống; đương quy tửu tẩy; trần bì khứ bạch. Các vị trên + 1.800ml nước, sắc lọc bỏ bã lấy 200ml.Ngày sắc 1 thang, uống chia đều 5 lần.

TTND.BS. Trần Văn Bản

Ẩm thực trị chứng mất ngủ

Các biện pháp điều trị chứng mất ngủ của y học cổ truyền bao gồm dược pháp, ẩm thực liệu pháp và phương pháp không dùng thuốc như châm cứu, tâm lý liệu pháp, dưỡng sinh, xoa bóp huyệt...

Ẩm thực liệu pháp điều trị chứng mất ngủ

Đối với bệnh nhân bị mất ngủ kéo dài do áp lực công việc, căng thẳng thần kinh sau stress, suy nhược thần kinh thì sau khi loại bỏ các nguyên nhân gây mất ngủ, biện pháp tốt nhất là dùng ẩm thực liệu pháp để điều chỉnh.

- Canh tim lợn: tim lợn 1 cái, bổ đôi rửa sạch cho vào nồi đun cùng với toan táo nhân 15g, phục linh 15g, viễn chí 5g. Đun to lửa cho đến khi sôi, vớt bỏ bọt rồi vặn nhỏ lửa đun cho tới khi chín là dùng được. Có tác dụng: bổ huyết, dưỡng tâm, ích can, định thần, điều trị chứng tâm can huyết hư dẫn đến tâm quý, không yên, mất ngủ, ngủ mê nhiều, trí nhớ giảm sút...

- Canh long nhãn, liên tử: long nhãn 20 g, liên tử 30g, bột ngó sen 50g. Rửa sạch liên tử đun chín rồi thêm long nhãn đun nhỏ lửa cho tới khi liên tử chín nhuyễn thì cho bột ngó sen đã hòa với nước lạnh vào quấy đều cho tới sôi là được. Tác dụng: dưỡng tâm, kiện tỳ, ích khí huyết, an thần. Thích hợp với những bệnh nhân tâm tỳ hư, suy nhược thần kinh, ngày dùng 2 lần sáng, chiều.

- Cơm canh thiên ma: thiên ma 5g, thịt gà 25g, măng tây, cà rốt 50g, nấm hương, khoai sọ vừa đủ, gia vị. Ngâm thiên ma khoảng 1 giờ cho mềm, thái nhỏ ninh nhừ, thêm thịt gà băm nhỏ, cà rốt, măng tây, nấm hương, khoai sọ thái con chì cho vào ninh chín thêm gia vị vừa đủ vào là được, ăn cùng cơm ngày 1 lần; có tác dụng: kiện não, cường thân, trấn kinh, an thần, phù hợp với các chứng hay đau đầu, hoa mắt, ngủ ít, hay mê, hay quên.

- Chè ngó sen: có tác dụng dưỡng tâm, an thần.

- Trà hoa hồng: tác dụng giải uất.

- Trà long nhãn, bách hợp: có tác dụng an thần, trấn kinh.

- Trà tam thất: hoa tam thất pha trà uống có tác dụng trấn kinh, an thần phù hợp với bệnh nhân tăng huyết áp gây đau đầu, chóng mặt, mất ngủ, đặc biệt ở phụ nữ tiền mãn kinh.

- Trà tây dương sâm, linh chi: linh chi 15g, tây dương sâm 3g pha trà uống

- Long nhãn, táo nhân mỗi thứ 10g, ngũ vị tử 5g, đại táo 10 quả sắc lấy nước uống

- Lộc giác phiến 1g, tây dương sâm 3g, ngũ vị tử 5g sắc nước uống

- Ngũ vị tử, linh chi 10g, tây dương sâm 5g, đại táo 5 quả sắc nước uống

- Ngũ vị tử 10g, long nhãn 10g, hợp hoan bì 5g, toan táo nhân 5g sắc nước uống

- Long nhãn 200g, đào nhân 100g, tây dương sâm 10g, đại táo nhục 200g, mật ong 10g. Sắc đặc nấu cao, mỗi ngày dùng 1 đến 2 thìa canh

- Bách hợp 30g, long nhãn 15g, tây dương sâm 5g, đại táo 10 quả; sắc nước uống ngày 2 lần

- Liên tử 50g, bách hợp 10g, toan táo nhân 5g, sắc nước uống

- Long nhãn 30g, liên tử 50g, thịt nạc 200g, gia vị vừa đủ nấu canh ăn

Trị chứng mất ngủ bằng thực phẩm
Một số bài thuốc kinh nghiệm

(Hỗ trợ điều trị chứng mất ngủ)

- Hoàng liên 10g, sinh bạch thược 20g, trứng tươi bỏ lòng trắng 2 quả, a giao 50g. Rửa sạch hoàng liên, sinh bạch thược đun cô đặc còn 150 ml nước, bỏ bã; cho a giao đun cách thủy cho tan ra, rồi hòa vào dung dịch hoàng liên, bạch thược, đun sôi hòa tan 2 lòng đỏ trứng, sôi một lúc là được. Trước khi ngủ ăn 1 lần, lượng vừa phải, có tác dụng: thông tâm thận, điều trị chứng mất ngủ do tâm thận bất giao.

- Toan táo nhân 75g, nhũ hương 30g, mật ong 60ml, ngưu hoàng 0,5g; gạo 50g, chu sa 15g; tất cả tán bột mịn, thêm 5ml rượu hòa với mật ong làm hoàn. Mỗi lần uống 15g; có tác dụng thực đởm, an thần phù hợp với chứng đởm hư mất ngủ.

- Phục thần 10g, sơn tra 10g, phục linh 12g, bán hạ 10 g, trần bì 6g, lai phụ tử 15g, liên kiều 6g, đun pha nước uống sau ăn trưa, ăn tối có tác dụng kiện tỳ hòa vị, hóa trệ tiêu tích phù hợp với bệnh nhân mất ngủ do vị khí bất hòa.

- Đảng sâm 12g, hoàng kỳ 15g, bạch truật, phục thần, toan táo nhân 10g, nhục quế 12g, mộc hương 8g, cam thảo 6, đương quy 10g, viễn chí 6g, sinh khương 3 lát, đại táo 5 quả, sắc uống mỗi ngày 1 thang chia 2 lần; có tác dụng bổ ích tâm tỳ, dưỡng huyết an thần điều trị chứng mất ngủ do tâm tỳ hư.

TS.BS. Nguyễn Thị Tâm Thuận

Các bài thuốc điều trị viêm gan

Đối với bệnh viêm gan virút nói riêng, viêm gan vàng da nói chung, Đông y có nhiều bài thuốc chữa rất có hiệu quả. Đây không phải là những bài thuốc đặc trị theo từng loại bệnh mà chính là tăng cường chức năng gan, lập lại sự cân bằng, giúp chức năng gan trở lại trạng thái bình thường.

Điều trị theo chứng bệnh

Đông y không phân thành bệnh viêm gan mà gọi chung là hoàng đản (chứng vàng da). Về phân loại, Đông y phân ra hai chứng hoàng đản: dương hoàng và âm hoàng.

Dương hoàng: biểu hiện mặt, mắt vàng tươi sáng như màu quả quít, da vàng nhuận, bệnh nhân cảm giác lợm giọng, nôn ọe, vùng thượng vị đau tức, nước tiểu đỏ, có sốt, thân thể mệt mỏi, tinh thần uể oải, ăn kém, rêu lưỡi vàng nhờn, hoặc trắng mỏng, chất lưỡi đỏ. Phép chữa là thanh nhiệt, lợi thấp.

Các bài thuốc điều trị viêm gan 1

Các bài thuốc điều trị viêm gan 2

Rau má và mướp đắng được dùng trong bài thuốc trị viêm gan

Bài thuốc: nhân trần 30g, vọng cách 20g, chi tử 10g, vỏ đại (sao vàng) 10g, ý dĩ 30g, thần khúc 10g, actisô 20g, cuống rơm nếp 10g, nghệ vàng 20g, mã đề 12g, mạch nha 16g, cam thảo nam 8g. Tất cả cho vào ấm đất với 500ml nước, sắc còn 150ml, chắt ra, cho nước sắc tiếp, lấy thêm 100ml, trộn chung cả hai lần, chia đều uống trong ngày, uống trước các bữa ăn. Uống liền 7 - 10 ngày.

m hoàng: có triệu chứng mặt, mắt và da vàng hãm tối, bụng đầy, rối loạn tiêu hóa, vùng thượng vị, trung vị, hạ vị đều đau tức, không sốt, thân thể mệt mỏi, rêu lưỡi trắng mỏng, hoặc hơi vàng trơn, chất lưỡi nhợt nhạt. Phép chữa là ôn hóa hàn thấp.

Bài thuốc: nhân trần 30g, vọng cách 20g, gừng khô 8g, quế thông 4g, ý dĩ 30g, thần khúc 10g, actisô 20g, cuống rơm nếp 10g (sao), nghệ vàng 20g, củ sả 8g, mạch nha 16g, cam thảo nam 8g (sao). Sắc uống như bài trên.

Điều trị theo thể bệnh

Thể can nhiệt tỳ thấp: viêm gan có vàng da kéo dài. Người bệnh thường thấy đắng miệng không muốn ăn, bụng đầy trướng, ngực sườn đầy tức, miệng khô nhợt, đau nóng ở vùng gan, da sạm tối. Tiểu tiện ít, vàng, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch huyền. Phép chữa là thanh nhiệt lợi thấp, thoái hoàng, kiện tỳ trừ thấp. Dùng một trong các bài thuốc:

- Nhân trần 20g, chi tử 12g, uất kim 8g, ngưu tất 8g, đinh lăng 12g, hoài sơn 12g, ý dĩ 16g, biển đậu 12g, rễ cỏ tranh 12g, sa tiền tử 12g, ngũ gia bì 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Nhân trần ngũ linh tán gia giảm: nhân trần 20g, bạch truật 12g, sa tiền12g, đẳng sâm 16g, phục linh 12g, trư linh 8g, trạch tả 12g, ý dĩ 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Hoàng cầm hoạt thạch thang gia giảm: hoàng cầm 12g, hoạt thạch 12g, đại phúc bì 12g, phục linh 8g, trư linh 8g, bạch đậu khấu 8g, kim ngân 16g, mộc thông 12g, nhân trần 20g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang.

Thể can uất tỳ hư, khí trệ: hay gặp ở viêm gan mạn do viêm gan siêu vi. Người bệnh có biểu hiện mạn sườn phải đau, ngực sườn đau tức, miệng đắng, ăn kém, người mệt mỏi, đại tiện phân nát, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch huyền. Phép chữa là sơ can kiện tỳ lý khí. Dùng một trong các bài thuốc:

-Rau má 12g, mướp đắng 12g, thanh bì 8g, chỉ thực 8g, uất kim 8g, hậu phác 8g, ý dĩ 16g, hoài sơn 16g, biển đậu 12g, đinh lăng 16g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Sài hồ sơ can thang gia giảm: sài hồ 12g, bạch thược 8g, chỉ thực 6g, xuyên khung 8g, hậu phác 6g, cam thảo 6g, đương quy 6g, đại táo 8g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Sài thược lục quân thang: bạch truật 12g, đẳng sâm 12g, phục linh 8g, cam thảo 6g, trần bì 6g, bán hạ 6g, sài hồ 12g, bạch thược 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

-Tiêu dao tán gia giảm: sài hồ 12g, bạch thược 12g, đương quy 12g, bạch truật 12g, bạch linh 12g, cam thảo 4g, gừng sống 2g, uất kim 4g. Sắc uống ngày 1 thang.

Thể can âm bị thương tổn: người bệnh có biểu hiện đầu choáng, hồi hộp, ngủ ít, hay mê, lòng bàn tay bàn chân nóng, chất lưỡi đỏ, táo bón, nước tiểu vàng, mạch huyền sác. Phép chữa là tư âm dưỡng can. Dùng một trong các bài thuốc:

-Sa sâm 12g, mạch môn 12g, thục địa 12g, thiên môn 8g, kỷ tử 12g, huyết dụ 16g, hoài sơn 16g, ý dĩ 16g, hà thủ ô 12g, tang thầm 8g. Sắc uống ngày 1 thang.

-Nhất quán tiễn gia giảm: sa sâm 12g, sinh địa 12g, nữ trinh tử 12g, mạch môn 12g, bạch thược 12g, kỷ tử 12g, hà thủ ô 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Nếu mất ngủ, gia toan táo nhân 10g; sốt hâm hấp gia địa cốt bì 12g, thanh hao 8g. Mạch môn là vị thuốc trị viêm gan mạn thể can âm bị thương tổn rất hiệu quả.

Thể khí trệ huyết ứ: hay gặp ở thể viêm gan mạn có kèm theo hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch chủ. Người bệnh có biểu hiện sắc mặt tối sạm, môi thâm, lưỡi tím, lách to, người gầy, ăn kém, đại tiện phân nát, nước tiểu vàng ít, chất lưỡi đỏ hoặc có điểm ứ huyết, rêu lưỡi vàng dính, mạch huyền sác. Dùng một trong các bài thuốc:

- Kê huyết đằng 12g, cỏ nhọ nồi 12g, uất kim 8g, tam lăng 8g, nga truật 8g, chỉ xác 8g, sinh địa 12g, mẫu lệ 16g, quy bản 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Tứ vật đào hồng gia giảm: bạch thược 12g, đương quy 8g, xuyên khung 12g, đan sâm 12g, hồng hoa 8g, đào nhân 8g, diên hồ sách 8g. Sắc uống ngày 1 thang. Nếu lách to gia tam lăng 12g, nga truật 12g, mẫu lệ 20g, mai ba ba 20g.

BS.CKII. HUỲNH TẤN VŨ

Bài thuốc trị đau mắt do dị ứng

Mùa xuân, khí hậu ẩm ướt, mưa phùn, thời tiết cũng dần ấm lên là điều kiện thuận lợi cho các loại nấm mốc, vi khuẩn, virut sinh sôi, phát triển, cây cối đâm chồi nảy lộc, nở hoa. Phấn hoa lại là nguyên nhân gây nhiều bệnh dị ứng, trong đó có các bệnh về mắt . Xin giới thiệu cách điều trị đau mắt do dị ứng.

Thuốc xông, đắp

Khi có hiện tượng viêm mi mắt, mắt ngứa, chảy nước, mắt bị sung huyết gây sưng đỏ nên sử dụng một số dược liệu chứa tinh dầu để xông hơi, như dùng bạc hà, phần trên mặt đất của cây bạc hà 50g, cúc hoa (cúc trắng hoặc cúc vàng đều được) khoảng 16g (bạc hà và cúc hoa tươi hay khô đều được); lá đại bi, lá cúc tần mỗi vị 50g; lá dâu tằm 50g. Tất cả cho vào nồi, đổ 300ml nước, đun sôi 5 - 10 phút, sau đó hơ nhẹ lên mắt bằng cách hướng luồng hơi vào nơi mắt đau. Cũng có thể dùng lá trầu không 20g hoặc lá dâu tằm, hoặc phối hợp hai thứ lá đó với nhau. Sau khi xông hơi gạn lấy nước lá xông lúc còn ấm, dùng khăn rửa nhẹ lên mắt. Ngày làm từ 1 - 2 lần.

Trường hợp mắt sưng đỏ, đau nhức nhiều có thể dùng các lá tươi sau, đắp lên mi mắt: phần trên mặt đất của cây rau má, lá rau muống, rửa sạch bằng nước muối loãng, giã nát, gói vào miếng vải gạc sạch, rồi đặt lên mi mắt, thấy khô, nóng lại lật bên kia. Cũng làm tương tự như vậy với lá cây dành dành, song với lá dành dành thì sau khi rửa sạch lại vò mạnh để lấy dịch đông như thạch, gói vào miếng giấy bản, rồi đặt lên nơi mắt bị sưng đau.

Viêm kết mạc dị ứng là bệnh thường gặp trong mùa xuân.

Thuốc uống trong

Khi mắt bị ngứa, đỏ dùng cúc hoa vàng, bạc hà, kinh giới, hạ khô thảo, tân di, cốc tinh thảo, lượng bằng nhau 6 - 8g, sắc hoặc hãm uống hằng ngày 2 - 3 lần vào lúc sau bữa ăn khoảng 1,5 - 2 giờ. Uống nhiều ngày đến khi các triệu chứng thuyên giảm.

Cũng có thể dùng cúc hoa, bạch tật lê mỗi vị 9g; phòng phong 5g để trị đau mắt do phong nhiệt.

Khi đau mắt kèm theo khô mắt, hoa mắt: dùng cúc hoa vàng, mẫu đơn bì, phục linh, trạch tả mỗi vị 12g; sơn thù du, hoài sơn mỗi vị 16g; thục địa 32g, sắc uống ngày 1 thang, uống liền 3 tuần lễ; hoặc làm hoàn với mật ong, uống ngày 2- 3 lần, mỗi lần 12 - 16g, sau bữa ăn khoảng 1,5 - 2 giờ.

Nếu mắt sưng đau, đỏ kèm theo có màng mộng, thị lực giảm: dùng thạch quyết minh, cúc hoa, cốc tinh thảo, mật mông hoa dưới dạng thuốc hãm hoặc sắc uống, ngày một thang, uống liền 3 - 4 tuần lễ.

Trường hợp mắt sưng đỏ kèm đau đầu, ù tai dùng cúc hoa, thạch quyết minh, sinh địa, bạch thược mỗi vị 15g; long đởm thảo 5g, sắc uống ngày một thang, uống liền 3 - 4 tuần lễ đến khi các triệu chứng thuyên giảm.

Với phương châm “phòng bệnh là chính”, cần dùng khăn sạch rửa mắt, không dùng chung khăn mặt, chậu rửa mặt. Hằng ngày nên nhỏ mắt vài lần bằng nước muối sinh lý natriclorua 0,9%, nếu mắt bị ngứa nhiều thì nhỏ cloroxit 0,4%. Bệnh nặng cần đi khám bác sĩ chuyên khoa mắt.

GS.TS. Phạm Xuân Sinh

Xông hơi: Phương pháp chữa bệnh độc đáo

Đông y có rất nhiều phương pháp chữa bệnh. Nếu nói về thuốc uống đã có 8 cách (bát pháp). Ngoài ra còn rất nhiều phương pháp khác như châm cứu, bấm huyệt, khí công dưỡng sinh. đặc biệt xông hơi được coi là một phương pháp chữa bệnh độc đáo và rất quen thuộc trong nhân dân.

Bát pháp trong Đông y

Bát pháp ở đây chủ yếu nói tới các cách chữa bệnh bằng cách dùng thuốc để uống, bao gồm: Pháp hãn là phương pháp uống thuốc để làm cho ra mồ hôi khi mắc các chứng cảm mạo phong hàn đôi khi cả phong nhiệt để mồ hôi thoát ra ngoài mang theo các nguyên nhân gây bệnh mà YHCT gọi là "hàn tà hoặc nhiệt tà" kèm theo là hạ thân nhiệt, làm hạ sốt, giảm đau và các triệu chứng khác kèm theo. Pháp thổ là phương pháp làm nôn ra thức ăn, thức uống, nhất là khi ăn phải các thức ăn ôi thiu, trúng độc, gây đau bụng dữ dội. Phương pháp tả hạ là phương pháp dùng thuốc cho đi tiêu chảy, để chữa các trường hợp đại tràng thực nhiệt, bụng đầy trướng, táo kết gây co thắt đại tràng, đau đớn... Pháp hòa là phương pháp dùng các vị thuốc có tính chất hòa hoãn để làm cân bằng lại âm dương, khi quá nhiệt hoặc quá hàn. Pháp ôn là phương pháp dùng các vị thuốc mang tính vị cay nóng, tính ôn, nhiệt để điều trị các chứng mà cơ thể luôn cảm thấy giá lạnh, nhất là chân tay, ngay cả mùa hè... Pháp thanh là phương pháp dùng các vị thuốc để thanh nhiệt cho cơ thể, nếu bị trúng thử (say nắng), dùng thuốc thanh nhiệt giải thử, nếu bị mụn nhọt, mẩn ngứa, dùng thanh nhiệt giải độc... Pháp tiêu chủ yếu là "tiêu đạo", tức dùng các vị thuốc mang tính chất tiêu hóa, khi cơ thể kém tiêu, ăn uống không biết ngon... Pháp bổ gồm 4 cách: bổ âm, bổ dương, bổ khí và bổ huyết.

Phương pháp xông hơi: là phương pháp được tiến hành xông theo nhiều cách khác nhau: xông toàn thân khi cảm mạo hoặc xông cục bộ khi viêm mắt, viêm mũi, buồn bực ống chân, đau lưng... là những bệnh thường gặp khi giao mùa. Sau đây xin được giới thiệu về phương pháp này.

Dược liệu để xông hơi

Các dược liệu dùng để xông hơi đa phần dùng dạng tươi, dễ kiếm, dễ hái ngay trong vườn nhà. Liều lượng mỗi lần, thường dùng dưới dạng một nắm (tương đương 50 - 70g). Tùy theo từng chứng bệnh mà có các dược liệu tương ứng, ví dụ khi bị cảm mạo phong hàn, nồi lá xông sẽ có nhiều vị thuốc, được cấu tạo theo các nguyên tắc sau:

- Dược liệu mang tính kích thích khai mở tuyến mồ hôi: đó là các loại lá có mùi thơm, tức có chứa các thành phần bay hơi: tinh dầu, coumarin, các chất terpen... có khả năng kích thích tuyến mồ hôi: lá sả, khuynh diệp, tía tô, kinh giới, hương nhu, bạc hà, cúc tần...

- Dược liệu mang tính thanh nhiệt: lá tre, lá duối, lá mây... là những dược liệu chứa nhiều chất chlorophyl (diệp lục tố) có tác dụng thanh nhiệt giải độc tốt.

- Dược liệu mang tính nhuận hạ, lợi tiểu: Lá và dây khoai lang, rễ khoai lang chứa nhiều chất nhựa có tác dụng nhu nhuận đường tiêu hóa.

Như vậy, tác dụng chung của các dược liệu nói trên là làm cho cơ thể ra mồ hôi dẫn đến hạ nhiệt khi sốt cao, thanh nhiệt giải độc và nhuận hạ, giúp cơ thể thải nhiệt qua đường đại tiểu tiện.

Phương pháp xông

Xông toàn thân: Các dược liệu xông được đun trong nồi đậy kín, sôi khoảng 5-7 phút. Lấy ra, đặt phía trước người bệnh, trùm chăn kín, người bệnh cởi áo để hơi lá xông trực tiếp vào toàn bộ phần da trên cơ thể, mở vung nồi cho hơi bốc lên, đồng thời múc lấy một bát nước xông khoảng 100ml. Trong quá trình xông, thỉnh thoảng lại quấy đảo để cho hơi bốc mạnh. Khi hơi đã giảm, người bệnh uống bát nước lá xông. Như vậy, dưới tác động của hơi nước bão hòa, tinh dầu của các dược liệu đã kích thích khai mở lỗ chân lông, làm mồ hôi thoát ra. Việc uống bát nước lá xông có ý nghĩa làm ấm bên trong, tăng áp lực thẩm thấu, đẩy tiếp mồ hôi ra ngoài, tăng sức giải cảm. Chú ý, cần lau nhanh mồ hôi, mặc áo ngay, tránh gió lùa. Và không ra gió sau khi xông.

Xông cục bộ (tại chỗ):

- Xông chữa bệnh đau mắt đỏ hoặc viêm kết mạc mùa xuân. Dược liệu để xông gồm: lá bạc hà, lá dành dành, lá trầu không, lá duối, mỗi thứ khoảng 10g, cúc hoa 4g. Đun sôi 5 -7 phút. Lấy ra xông trực tiếp lên mắt. Lúc đầu nên để xa mắt, khi nguội dần để gần lại; nên trùm kín một cái khăn sạch để tập trung hơi xông. Sau khi xông, gạn lấy nước trong, rửa mắt.

- Xông chữa bệnh viêm mũi, hắt hơi, ngạt mũi. Dược liệu xông: bạc hà, quả ké, lá hoa ngũ sắc (lá cây hoa cứt lợn), tân di, bạch chỉ. Cách làm như xông mắt, chú ý hướng hơi lá xông vào mũi, nên hít sâu khi xông. Sau khi xông cũng dùng nước này để trong mà rửa hai lỗ mũi.

- Xông chữa đau đầu, đau gáy: Trước tiên, nung một hòn gạch cho nóng đỏ. Sau đó đặt viên gạch lên một vật liệu không cháy. Xếp một lớp lá ngải cứu, cúc tần tươi đã thái nhỏ lên trên viên gạch rồi rưới đều lên đó khoảng 50ml rượu trắng 30 - 35 độ. Đặt nhẹ phần đầu hoặc gáy bị đau lên phía trên lớp lá thuốc, đồng thời trùm kín đầu bằng một mảnh vải. Chú ý để đầu (gáy) ở vị trí có thể vừa tới sức nóng để tránh bị bỏng. Một tuần, có thể làm vài lần như vậy sẽ cho kết quả tốt

- Xông chữa đau nhức, tê bì hai ống chân, bàn chân: Cách làm tương tự như phương pháp xông đau đầu ở trên, song dược liệu là lá xoan chồi (lá non mọc ra từ chỗ chặt của cành hoặc thân cây xoan), dây chìa vôi, lá ngải cứu, lá cúc tần, đều dùng tươi, mỗi thứ khoảng 100g. Đem các dược liệu trên thái nhỏ, hoặc giã hơi nát, rồi cũng đặt lên một viên gạch đã nung đỏ như trên. Viên gạch nung đỏ có thuốc được đặt xuống một cái hố có kích thước vừa đủ để đặt hai chân xuống (cũng có thể thay cái hố đó bằng một thùng sắt tây hoặc cái vại sành). Rưới lên lớp lá đó khoảng 100ml rượu trắng, hoặc đồng tiện (nước tiểu trẻ em nam có độ tuổi từ 5-12, khỏe mạnh, bỏ đoạn đầu, đoạn cuối, lấy đoạn giữa). Hơ hai bàn chân lên hơi lá xông, lúc đầu để xa, sau để gần lớp lá, tránh bỏng. Cần phủ một mảnh vải ngang gối để giữ hơi lá xông. Tuần làm vài lần, sẽ cho hiệu quả tốt.

GS.TS. Phạm Xuân Sinh