This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Ẩm thực trị chứng mất ngủ

Các biện pháp điều trị chứng mất ngủ của y học cổ truyền bao gồm dược pháp, ẩm thực liệu pháp và phương pháp không dùng thuốc như châm cứu, tâm lý liệu pháp, dưỡng sinh, xoa bóp huyệt...

Ẩm thực liệu pháp điều trị chứng mất ngủ

Đối với bệnh nhân bị mất ngủ kéo dài do áp lực công việc, căng thẳng thần kinh sau stress, suy nhược thần kinh thì sau khi loại bỏ các nguyên nhân gây mất ngủ, biện pháp tốt nhất là dùng ẩm thực liệu pháp để điều chỉnh.

- Canh tim lợn: tim lợn 1 cái, bổ đôi rửa sạch cho vào nồi đun cùng với toan táo nhân 15g, phục linh 15g, viễn chí 5g. Đun to lửa cho đến khi sôi, vớt bỏ bọt rồi vặn nhỏ lửa đun cho tới khi chín là dùng được. Có tác dụng: bổ huyết, dưỡng tâm, ích can, định thần, điều trị chứng tâm can huyết hư dẫn đến tâm quý, không yên, mất ngủ, ngủ mê nhiều, trí nhớ giảm sút...

- Canh long nhãn, liên tử: long nhãn 20 g, liên tử 30g, bột ngó sen 50g. Rửa sạch liên tử đun chín rồi thêm long nhãn đun nhỏ lửa cho tới khi liên tử chín nhuyễn thì cho bột ngó sen đã hòa với nước lạnh vào quấy đều cho tới sôi là được. Tác dụng: dưỡng tâm, kiện tỳ, ích khí huyết, an thần. Thích hợp với những bệnh nhân tâm tỳ hư, suy nhược thần kinh, ngày dùng 2 lần sáng, chiều.

- Cơm canh thiên ma: thiên ma 5g, thịt gà 25g, măng tây, cà rốt 50g, nấm hương, khoai sọ vừa đủ, gia vị. Ngâm thiên ma khoảng 1 giờ cho mềm, thái nhỏ ninh nhừ, thêm thịt gà băm nhỏ, cà rốt, măng tây, nấm hương, khoai sọ thái con chì cho vào ninh chín thêm gia vị vừa đủ vào là được, ăn cùng cơm ngày 1 lần; có tác dụng: kiện não, cường thân, trấn kinh, an thần, phù hợp với các chứng hay đau đầu, hoa mắt, ngủ ít, hay mê, hay quên.

- Chè ngó sen: có tác dụng dưỡng tâm, an thần.

- Trà hoa hồng: tác dụng giải uất.

- Trà long nhãn, bách hợp: có tác dụng an thần, trấn kinh.

- Trà tam thất: hoa tam thất pha trà uống có tác dụng trấn kinh, an thần phù hợp với bệnh nhân tăng huyết áp gây đau đầu, chóng mặt, mất ngủ, đặc biệt ở phụ nữ tiền mãn kinh.

- Trà tây dương sâm, linh chi: linh chi 15g, tây dương sâm 3g pha trà uống

- Long nhãn, táo nhân mỗi thứ 10g, ngũ vị tử 5g, đại táo 10 quả sắc lấy nước uống

- Lộc giác phiến 1g, tây dương sâm 3g, ngũ vị tử 5g sắc nước uống

- Ngũ vị tử, linh chi 10g, tây dương sâm 5g, đại táo 5 quả sắc nước uống

- Ngũ vị tử 10g, long nhãn 10g, hợp hoan bì 5g, toan táo nhân 5g sắc nước uống

- Long nhãn 200g, đào nhân 100g, tây dương sâm 10g, đại táo nhục 200g, mật ong 10g. Sắc đặc nấu cao, mỗi ngày dùng 1 đến 2 thìa canh

- Bách hợp 30g, long nhãn 15g, tây dương sâm 5g, đại táo 10 quả; sắc nước uống ngày 2 lần

- Liên tử 50g, bách hợp 10g, toan táo nhân 5g, sắc nước uống

- Long nhãn 30g, liên tử 50g, thịt nạc 200g, gia vị vừa đủ nấu canh ăn

Trị chứng mất ngủ bằng thực phẩm
Một số bài thuốc kinh nghiệm

(Hỗ trợ điều trị chứng mất ngủ)

- Hoàng liên 10g, sinh bạch thược 20g, trứng tươi bỏ lòng trắng 2 quả, a giao 50g. Rửa sạch hoàng liên, sinh bạch thược đun cô đặc còn 150 ml nước, bỏ bã; cho a giao đun cách thủy cho tan ra, rồi hòa vào dung dịch hoàng liên, bạch thược, đun sôi hòa tan 2 lòng đỏ trứng, sôi một lúc là được. Trước khi ngủ ăn 1 lần, lượng vừa phải, có tác dụng: thông tâm thận, điều trị chứng mất ngủ do tâm thận bất giao.

- Toan táo nhân 75g, nhũ hương 30g, mật ong 60ml, ngưu hoàng 0,5g; gạo 50g, chu sa 15g; tất cả tán bột mịn, thêm 5ml rượu hòa với mật ong làm hoàn. Mỗi lần uống 15g; có tác dụng thực đởm, an thần phù hợp với chứng đởm hư mất ngủ.

- Phục thần 10g, sơn tra 10g, phục linh 12g, bán hạ 10 g, trần bì 6g, lai phụ tử 15g, liên kiều 6g, đun pha nước uống sau ăn trưa, ăn tối có tác dụng kiện tỳ hòa vị, hóa trệ tiêu tích phù hợp với bệnh nhân mất ngủ do vị khí bất hòa.

- Đảng sâm 12g, hoàng kỳ 15g, bạch truật, phục thần, toan táo nhân 10g, nhục quế 12g, mộc hương 8g, cam thảo 6, đương quy 10g, viễn chí 6g, sinh khương 3 lát, đại táo 5 quả, sắc uống mỗi ngày 1 thang chia 2 lần; có tác dụng bổ ích tâm tỳ, dưỡng huyết an thần điều trị chứng mất ngủ do tâm tỳ hư.

TS.BS. Nguyễn Thị Tâm Thuận

Các bài thuốc điều trị viêm gan

Đối với bệnh viêm gan virút nói riêng, viêm gan vàng da nói chung, Đông y có nhiều bài thuốc chữa rất có hiệu quả. Đây không phải là những bài thuốc đặc trị theo từng loại bệnh mà chính là tăng cường chức năng gan, lập lại sự cân bằng, giúp chức năng gan trở lại trạng thái bình thường.

Điều trị theo chứng bệnh

Đông y không phân thành bệnh viêm gan mà gọi chung là hoàng đản (chứng vàng da). Về phân loại, Đông y phân ra hai chứng hoàng đản: dương hoàng và âm hoàng.

Dương hoàng: biểu hiện mặt, mắt vàng tươi sáng như màu quả quít, da vàng nhuận, bệnh nhân cảm giác lợm giọng, nôn ọe, vùng thượng vị đau tức, nước tiểu đỏ, có sốt, thân thể mệt mỏi, tinh thần uể oải, ăn kém, rêu lưỡi vàng nhờn, hoặc trắng mỏng, chất lưỡi đỏ. Phép chữa là thanh nhiệt, lợi thấp.

Các bài thuốc điều trị viêm gan 1

Các bài thuốc điều trị viêm gan 2

Rau má và mướp đắng được dùng trong bài thuốc trị viêm gan

Bài thuốc: nhân trần 30g, vọng cách 20g, chi tử 10g, vỏ đại (sao vàng) 10g, ý dĩ 30g, thần khúc 10g, actisô 20g, cuống rơm nếp 10g, nghệ vàng 20g, mã đề 12g, mạch nha 16g, cam thảo nam 8g. Tất cả cho vào ấm đất với 500ml nước, sắc còn 150ml, chắt ra, cho nước sắc tiếp, lấy thêm 100ml, trộn chung cả hai lần, chia đều uống trong ngày, uống trước các bữa ăn. Uống liền 7 - 10 ngày.

m hoàng: có triệu chứng mặt, mắt và da vàng hãm tối, bụng đầy, rối loạn tiêu hóa, vùng thượng vị, trung vị, hạ vị đều đau tức, không sốt, thân thể mệt mỏi, rêu lưỡi trắng mỏng, hoặc hơi vàng trơn, chất lưỡi nhợt nhạt. Phép chữa là ôn hóa hàn thấp.

Bài thuốc: nhân trần 30g, vọng cách 20g, gừng khô 8g, quế thông 4g, ý dĩ 30g, thần khúc 10g, actisô 20g, cuống rơm nếp 10g (sao), nghệ vàng 20g, củ sả 8g, mạch nha 16g, cam thảo nam 8g (sao). Sắc uống như bài trên.

Điều trị theo thể bệnh

Thể can nhiệt tỳ thấp: viêm gan có vàng da kéo dài. Người bệnh thường thấy đắng miệng không muốn ăn, bụng đầy trướng, ngực sườn đầy tức, miệng khô nhợt, đau nóng ở vùng gan, da sạm tối. Tiểu tiện ít, vàng, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch huyền. Phép chữa là thanh nhiệt lợi thấp, thoái hoàng, kiện tỳ trừ thấp. Dùng một trong các bài thuốc:

- Nhân trần 20g, chi tử 12g, uất kim 8g, ngưu tất 8g, đinh lăng 12g, hoài sơn 12g, ý dĩ 16g, biển đậu 12g, rễ cỏ tranh 12g, sa tiền tử 12g, ngũ gia bì 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Nhân trần ngũ linh tán gia giảm: nhân trần 20g, bạch truật 12g, sa tiền12g, đẳng sâm 16g, phục linh 12g, trư linh 8g, trạch tả 12g, ý dĩ 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Hoàng cầm hoạt thạch thang gia giảm: hoàng cầm 12g, hoạt thạch 12g, đại phúc bì 12g, phục linh 8g, trư linh 8g, bạch đậu khấu 8g, kim ngân 16g, mộc thông 12g, nhân trần 20g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang.

Thể can uất tỳ hư, khí trệ: hay gặp ở viêm gan mạn do viêm gan siêu vi. Người bệnh có biểu hiện mạn sườn phải đau, ngực sườn đau tức, miệng đắng, ăn kém, người mệt mỏi, đại tiện phân nát, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch huyền. Phép chữa là sơ can kiện tỳ lý khí. Dùng một trong các bài thuốc:

-Rau má 12g, mướp đắng 12g, thanh bì 8g, chỉ thực 8g, uất kim 8g, hậu phác 8g, ý dĩ 16g, hoài sơn 16g, biển đậu 12g, đinh lăng 16g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Sài hồ sơ can thang gia giảm: sài hồ 12g, bạch thược 8g, chỉ thực 6g, xuyên khung 8g, hậu phác 6g, cam thảo 6g, đương quy 6g, đại táo 8g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Sài thược lục quân thang: bạch truật 12g, đẳng sâm 12g, phục linh 8g, cam thảo 6g, trần bì 6g, bán hạ 6g, sài hồ 12g, bạch thược 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

-Tiêu dao tán gia giảm: sài hồ 12g, bạch thược 12g, đương quy 12g, bạch truật 12g, bạch linh 12g, cam thảo 4g, gừng sống 2g, uất kim 4g. Sắc uống ngày 1 thang.

Thể can âm bị thương tổn: người bệnh có biểu hiện đầu choáng, hồi hộp, ngủ ít, hay mê, lòng bàn tay bàn chân nóng, chất lưỡi đỏ, táo bón, nước tiểu vàng, mạch huyền sác. Phép chữa là tư âm dưỡng can. Dùng một trong các bài thuốc:

-Sa sâm 12g, mạch môn 12g, thục địa 12g, thiên môn 8g, kỷ tử 12g, huyết dụ 16g, hoài sơn 16g, ý dĩ 16g, hà thủ ô 12g, tang thầm 8g. Sắc uống ngày 1 thang.

-Nhất quán tiễn gia giảm: sa sâm 12g, sinh địa 12g, nữ trinh tử 12g, mạch môn 12g, bạch thược 12g, kỷ tử 12g, hà thủ ô 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Nếu mất ngủ, gia toan táo nhân 10g; sốt hâm hấp gia địa cốt bì 12g, thanh hao 8g. Mạch môn là vị thuốc trị viêm gan mạn thể can âm bị thương tổn rất hiệu quả.

Thể khí trệ huyết ứ: hay gặp ở thể viêm gan mạn có kèm theo hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch chủ. Người bệnh có biểu hiện sắc mặt tối sạm, môi thâm, lưỡi tím, lách to, người gầy, ăn kém, đại tiện phân nát, nước tiểu vàng ít, chất lưỡi đỏ hoặc có điểm ứ huyết, rêu lưỡi vàng dính, mạch huyền sác. Dùng một trong các bài thuốc:

- Kê huyết đằng 12g, cỏ nhọ nồi 12g, uất kim 8g, tam lăng 8g, nga truật 8g, chỉ xác 8g, sinh địa 12g, mẫu lệ 16g, quy bản 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Tứ vật đào hồng gia giảm: bạch thược 12g, đương quy 8g, xuyên khung 12g, đan sâm 12g, hồng hoa 8g, đào nhân 8g, diên hồ sách 8g. Sắc uống ngày 1 thang. Nếu lách to gia tam lăng 12g, nga truật 12g, mẫu lệ 20g, mai ba ba 20g.

BS.CKII. HUỲNH TẤN VŨ

Bài thuốc trị đau mắt do dị ứng

Mùa xuân, khí hậu ẩm ướt, mưa phùn, thời tiết cũng dần ấm lên là điều kiện thuận lợi cho các loại nấm mốc, vi khuẩn, virut sinh sôi, phát triển, cây cối đâm chồi nảy lộc, nở hoa. Phấn hoa lại là nguyên nhân gây nhiều bệnh dị ứng, trong đó có các bệnh về mắt . Xin giới thiệu cách điều trị đau mắt do dị ứng.

Thuốc xông, đắp

Khi có hiện tượng viêm mi mắt, mắt ngứa, chảy nước, mắt bị sung huyết gây sưng đỏ nên sử dụng một số dược liệu chứa tinh dầu để xông hơi, như dùng bạc hà, phần trên mặt đất của cây bạc hà 50g, cúc hoa (cúc trắng hoặc cúc vàng đều được) khoảng 16g (bạc hà và cúc hoa tươi hay khô đều được); lá đại bi, lá cúc tần mỗi vị 50g; lá dâu tằm 50g. Tất cả cho vào nồi, đổ 300ml nước, đun sôi 5 - 10 phút, sau đó hơ nhẹ lên mắt bằng cách hướng luồng hơi vào nơi mắt đau. Cũng có thể dùng lá trầu không 20g hoặc lá dâu tằm, hoặc phối hợp hai thứ lá đó với nhau. Sau khi xông hơi gạn lấy nước lá xông lúc còn ấm, dùng khăn rửa nhẹ lên mắt. Ngày làm từ 1 - 2 lần.

Trường hợp mắt sưng đỏ, đau nhức nhiều có thể dùng các lá tươi sau, đắp lên mi mắt: phần trên mặt đất của cây rau má, lá rau muống, rửa sạch bằng nước muối loãng, giã nát, gói vào miếng vải gạc sạch, rồi đặt lên mi mắt, thấy khô, nóng lại lật bên kia. Cũng làm tương tự như vậy với lá cây dành dành, song với lá dành dành thì sau khi rửa sạch lại vò mạnh để lấy dịch đông như thạch, gói vào miếng giấy bản, rồi đặt lên nơi mắt bị sưng đau.

Viêm kết mạc dị ứng là bệnh thường gặp trong mùa xuân.

Thuốc uống trong

Khi mắt bị ngứa, đỏ dùng cúc hoa vàng, bạc hà, kinh giới, hạ khô thảo, tân di, cốc tinh thảo, lượng bằng nhau 6 - 8g, sắc hoặc hãm uống hằng ngày 2 - 3 lần vào lúc sau bữa ăn khoảng 1,5 - 2 giờ. Uống nhiều ngày đến khi các triệu chứng thuyên giảm.

Cũng có thể dùng cúc hoa, bạch tật lê mỗi vị 9g; phòng phong 5g để trị đau mắt do phong nhiệt.

Khi đau mắt kèm theo khô mắt, hoa mắt: dùng cúc hoa vàng, mẫu đơn bì, phục linh, trạch tả mỗi vị 12g; sơn thù du, hoài sơn mỗi vị 16g; thục địa 32g, sắc uống ngày 1 thang, uống liền 3 tuần lễ; hoặc làm hoàn với mật ong, uống ngày 2- 3 lần, mỗi lần 12 - 16g, sau bữa ăn khoảng 1,5 - 2 giờ.

Nếu mắt sưng đau, đỏ kèm theo có màng mộng, thị lực giảm: dùng thạch quyết minh, cúc hoa, cốc tinh thảo, mật mông hoa dưới dạng thuốc hãm hoặc sắc uống, ngày một thang, uống liền 3 - 4 tuần lễ.

Trường hợp mắt sưng đỏ kèm đau đầu, ù tai dùng cúc hoa, thạch quyết minh, sinh địa, bạch thược mỗi vị 15g; long đởm thảo 5g, sắc uống ngày một thang, uống liền 3 - 4 tuần lễ đến khi các triệu chứng thuyên giảm.

Với phương châm “phòng bệnh là chính”, cần dùng khăn sạch rửa mắt, không dùng chung khăn mặt, chậu rửa mặt. Hằng ngày nên nhỏ mắt vài lần bằng nước muối sinh lý natriclorua 0,9%, nếu mắt bị ngứa nhiều thì nhỏ cloroxit 0,4%. Bệnh nặng cần đi khám bác sĩ chuyên khoa mắt.

GS.TS. Phạm Xuân Sinh

Xông hơi: Phương pháp chữa bệnh độc đáo

Đông y có rất nhiều phương pháp chữa bệnh. Nếu nói về thuốc uống đã có 8 cách (bát pháp). Ngoài ra còn rất nhiều phương pháp khác như châm cứu, bấm huyệt, khí công dưỡng sinh. đặc biệt xông hơi được coi là một phương pháp chữa bệnh độc đáo và rất quen thuộc trong nhân dân.

Bát pháp trong Đông y

Bát pháp ở đây chủ yếu nói tới các cách chữa bệnh bằng cách dùng thuốc để uống, bao gồm: Pháp hãn là phương pháp uống thuốc để làm cho ra mồ hôi khi mắc các chứng cảm mạo phong hàn đôi khi cả phong nhiệt để mồ hôi thoát ra ngoài mang theo các nguyên nhân gây bệnh mà YHCT gọi là "hàn tà hoặc nhiệt tà" kèm theo là hạ thân nhiệt, làm hạ sốt, giảm đau và các triệu chứng khác kèm theo. Pháp thổ là phương pháp làm nôn ra thức ăn, thức uống, nhất là khi ăn phải các thức ăn ôi thiu, trúng độc, gây đau bụng dữ dội. Phương pháp tả hạ là phương pháp dùng thuốc cho đi tiêu chảy, để chữa các trường hợp đại tràng thực nhiệt, bụng đầy trướng, táo kết gây co thắt đại tràng, đau đớn... Pháp hòa là phương pháp dùng các vị thuốc có tính chất hòa hoãn để làm cân bằng lại âm dương, khi quá nhiệt hoặc quá hàn. Pháp ôn là phương pháp dùng các vị thuốc mang tính vị cay nóng, tính ôn, nhiệt để điều trị các chứng mà cơ thể luôn cảm thấy giá lạnh, nhất là chân tay, ngay cả mùa hè... Pháp thanh là phương pháp dùng các vị thuốc để thanh nhiệt cho cơ thể, nếu bị trúng thử (say nắng), dùng thuốc thanh nhiệt giải thử, nếu bị mụn nhọt, mẩn ngứa, dùng thanh nhiệt giải độc... Pháp tiêu chủ yếu là "tiêu đạo", tức dùng các vị thuốc mang tính chất tiêu hóa, khi cơ thể kém tiêu, ăn uống không biết ngon... Pháp bổ gồm 4 cách: bổ âm, bổ dương, bổ khí và bổ huyết.

Phương pháp xông hơi: là phương pháp được tiến hành xông theo nhiều cách khác nhau: xông toàn thân khi cảm mạo hoặc xông cục bộ khi viêm mắt, viêm mũi, buồn bực ống chân, đau lưng... là những bệnh thường gặp khi giao mùa. Sau đây xin được giới thiệu về phương pháp này.

Dược liệu để xông hơi

Các dược liệu dùng để xông hơi đa phần dùng dạng tươi, dễ kiếm, dễ hái ngay trong vườn nhà. Liều lượng mỗi lần, thường dùng dưới dạng một nắm (tương đương 50 - 70g). Tùy theo từng chứng bệnh mà có các dược liệu tương ứng, ví dụ khi bị cảm mạo phong hàn, nồi lá xông sẽ có nhiều vị thuốc, được cấu tạo theo các nguyên tắc sau:

- Dược liệu mang tính kích thích khai mở tuyến mồ hôi: đó là các loại lá có mùi thơm, tức có chứa các thành phần bay hơi: tinh dầu, coumarin, các chất terpen... có khả năng kích thích tuyến mồ hôi: lá sả, khuynh diệp, tía tô, kinh giới, hương nhu, bạc hà, cúc tần...

- Dược liệu mang tính thanh nhiệt: lá tre, lá duối, lá mây... là những dược liệu chứa nhiều chất chlorophyl (diệp lục tố) có tác dụng thanh nhiệt giải độc tốt.

- Dược liệu mang tính nhuận hạ, lợi tiểu: Lá và dây khoai lang, rễ khoai lang chứa nhiều chất nhựa có tác dụng nhu nhuận đường tiêu hóa.

Như vậy, tác dụng chung của các dược liệu nói trên là làm cho cơ thể ra mồ hôi dẫn đến hạ nhiệt khi sốt cao, thanh nhiệt giải độc và nhuận hạ, giúp cơ thể thải nhiệt qua đường đại tiểu tiện.

Phương pháp xông

Xông toàn thân: Các dược liệu xông được đun trong nồi đậy kín, sôi khoảng 5-7 phút. Lấy ra, đặt phía trước người bệnh, trùm chăn kín, người bệnh cởi áo để hơi lá xông trực tiếp vào toàn bộ phần da trên cơ thể, mở vung nồi cho hơi bốc lên, đồng thời múc lấy một bát nước xông khoảng 100ml. Trong quá trình xông, thỉnh thoảng lại quấy đảo để cho hơi bốc mạnh. Khi hơi đã giảm, người bệnh uống bát nước lá xông. Như vậy, dưới tác động của hơi nước bão hòa, tinh dầu của các dược liệu đã kích thích khai mở lỗ chân lông, làm mồ hôi thoát ra. Việc uống bát nước lá xông có ý nghĩa làm ấm bên trong, tăng áp lực thẩm thấu, đẩy tiếp mồ hôi ra ngoài, tăng sức giải cảm. Chú ý, cần lau nhanh mồ hôi, mặc áo ngay, tránh gió lùa. Và không ra gió sau khi xông.

Xông cục bộ (tại chỗ):

- Xông chữa bệnh đau mắt đỏ hoặc viêm kết mạc mùa xuân. Dược liệu để xông gồm: lá bạc hà, lá dành dành, lá trầu không, lá duối, mỗi thứ khoảng 10g, cúc hoa 4g. Đun sôi 5 -7 phút. Lấy ra xông trực tiếp lên mắt. Lúc đầu nên để xa mắt, khi nguội dần để gần lại; nên trùm kín một cái khăn sạch để tập trung hơi xông. Sau khi xông, gạn lấy nước trong, rửa mắt.

- Xông chữa bệnh viêm mũi, hắt hơi, ngạt mũi. Dược liệu xông: bạc hà, quả ké, lá hoa ngũ sắc (lá cây hoa cứt lợn), tân di, bạch chỉ. Cách làm như xông mắt, chú ý hướng hơi lá xông vào mũi, nên hít sâu khi xông. Sau khi xông cũng dùng nước này để trong mà rửa hai lỗ mũi.

- Xông chữa đau đầu, đau gáy: Trước tiên, nung một hòn gạch cho nóng đỏ. Sau đó đặt viên gạch lên một vật liệu không cháy. Xếp một lớp lá ngải cứu, cúc tần tươi đã thái nhỏ lên trên viên gạch rồi rưới đều lên đó khoảng 50ml rượu trắng 30 - 35 độ. Đặt nhẹ phần đầu hoặc gáy bị đau lên phía trên lớp lá thuốc, đồng thời trùm kín đầu bằng một mảnh vải. Chú ý để đầu (gáy) ở vị trí có thể vừa tới sức nóng để tránh bị bỏng. Một tuần, có thể làm vài lần như vậy sẽ cho kết quả tốt

- Xông chữa đau nhức, tê bì hai ống chân, bàn chân: Cách làm tương tự như phương pháp xông đau đầu ở trên, song dược liệu là lá xoan chồi (lá non mọc ra từ chỗ chặt của cành hoặc thân cây xoan), dây chìa vôi, lá ngải cứu, lá cúc tần, đều dùng tươi, mỗi thứ khoảng 100g. Đem các dược liệu trên thái nhỏ, hoặc giã hơi nát, rồi cũng đặt lên một viên gạch đã nung đỏ như trên. Viên gạch nung đỏ có thuốc được đặt xuống một cái hố có kích thước vừa đủ để đặt hai chân xuống (cũng có thể thay cái hố đó bằng một thùng sắt tây hoặc cái vại sành). Rưới lên lớp lá đó khoảng 100ml rượu trắng, hoặc đồng tiện (nước tiểu trẻ em nam có độ tuổi từ 5-12, khỏe mạnh, bỏ đoạn đầu, đoạn cuối, lấy đoạn giữa). Hơ hai bàn chân lên hơi lá xông, lúc đầu để xa, sau để gần lớp lá, tránh bỏng. Cần phủ một mảnh vải ngang gối để giữ hơi lá xông. Tuần làm vài lần, sẽ cho hiệu quả tốt.

GS.TS. Phạm Xuân Sinh

Bài thuốc bổ thận tráng dương từ côn trùng

Hiện nay, yếu sinh lý là tình trạng khá phổ biến ở nam giới. Thuốc chữa bệnh cũng rất phong phú và đa dạng. Trong đó, có nhiều bài thuốc từ côn trùng có tác dụng bổ thận tráng dương rất hiệu quả. Xin giới thiệu một số bài thuốc và kinh nghiệm dân gian dùng ngài tằm đực và bổ bọ ngựa trên cây dâu điều trị yếu sinh lý để đấng mày râu tham khảo.

Ngài tằm đực: Theo Đông y, ngài tằm đực có vị mặn, bùi, béo, mùi thơm, tính ấm với tác dụng bổ thận, tráng dương, cường tinh rất tốt. Tác dụng làm tăng mạnh trọng lượng của túi tinh trên động vật thí nghiệm. Bộ phận dùng làm thuốc của ngài tằm đực là cả con, đem vặt cánh, bỏ đầu và chân, rồi phơi hoặc sấy khô. Khi dùng, đem dược liệu sao vàng, có thể dùng tươi.

Theo kinh nghiệm dân gian, ngài tằm đực (7 con, sao giòn) phối hợp với tôm he bóc vỏ (20g), giã nát, trộn với trứng gà (2 quả) dùng dưới dạng thức ăn như rán và hấp chín để làm thuốc bổ thận, tráng dương, ích tinh, chữa liệt dương, mộng tinh, không có con.

Có thể dùng dạng rượu ngâm gồm ngài tằm đực 100g, dâm dương hoắc 60g, ba kích 50g, kim anh 50g, thục địa 40g, sơn thù 30g, ngưu tất 30g, khởi tử 20g, lá hẹ 20g, đường kính 40g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, ngâm với 2 lít cồn 400. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 30ml trước hai bữa ăn chính và khi đi ngủ.

Chữa liệt dương: Tàm nga 10g phơi khô tán bộ, trộn mật làm hoàn, mỗi viên to bằng hạt ngô, mỗi tối uống 1 viên. Hoặc tàm nga lượng vừa đủ sao vàng, tán bột, mỗi lần uống 9g với rượu.

Chữa di tinh bạch trọc: Tàm nga lượng vừa đủ, sấy khô tán bột, dùng nước cơm làm hoàn to bằng hạt đỗ xanh, mỗi ngày uống 40 viên với nước muối nhạt.

Chữa lãnh cảm tình dục, rối loạn kinh nguyệt, mất kinh sớm: Tàm nga 100g ngâm với 500ml rượu trong 7-10 ngày, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 30ml.

Tổ bọ ngựa. Tổ bọc trứng của bọ ngựa (phiêu tiêu) thường bám trên cây và khi làm trên cây dâu thì gọi là “Tang phiêu tiêu” có vị mặn ngọt, tính bình vào can thận không độc. Có tác dụng ích thận cố tinh, chữa liệt dương, mộng tinh, đau lưng, kinh không thông, bụng đau có hòn cục, đái nhiều, đái són.

Bài 1: Tang phiêu tiêu 30g, hạt hẹ 30g, ích trí nhân 40g. Rang khô tán bột mịn. Ngày uống 2-3 lần. Mỗi lần 5g với nước đun sôi để nguội có pha ít rượu thì hiệu quả hơn.

Bài 2:  Tang phiêu tiêu 60g, phúc bồn tử 30g, rượu 10ml. Ngâm rượu 30 phút. Sau đó đem sao vàng tán bột. Ngày uống 2 lần sáng tối với nước đun sôi để nguội. Mỗi lần 2g.

Bài 3: Tang phiêu tiêu 60g, ích trí nhân 30g, sao khô, tán bột. Ngày 2 lần, mỗi lần 9g với nước đun sôi để nguội.

BS. Phó Thuần Hương

Phòng và chữa bệnh thấp cước khí

Cước khí là chứng bệnh đau từ hai bàn chân (bên ngoài tê dại, trong đau nhức, có khi thành co quắp không đi lại được), sau đó dần lên bụng chân, lên đầu gối... Bệnh chia làm 4 loại: phong cước khí, hàn cước khí, thấp cước khí, hỏa cước khí.

Nguyên nhân gây bệnh thấp cước khí do đi lại ở nơi ẩm thấp, làm cho khí thấp nhiễm vào cơ thể, bắt đầu từ bàn chân trở nên tê dại và sưng đau; hung cách bĩ đầy, thỉnh thoảng nôn ọe. Người bệnh có biểu hiện từ chân trở lên đến đầu gối tê dại và sưng đau, đi lại khó khăn, tinh thần mệt mỏi, phiền muộn, hay nôn ọe, toàn thân giá lạnh, tiểu tiện không lợi. Nếu không chữa ngay, khí thấp càng chứa chất nhiều sẽ xung lên tâm, phát sinh chứng nôn ọe và suyễn mạn, tinh thần hôn mê, nói năng lảm nhảm rất khó chữa. Sau đây là một số bài thuốc trị thể thấp cước khí:

Nếu thấp kiêm hàn:Biểu hiệnthân thể giá lạnh, tiểu tiện không lợi và thấy đại tiện nát nhiều. Dùng bài Ngũ tích tán gia phụ tử: khương truật 32g, ma hoàng 20g, trần bì 20g, can khương 16g, phục linh 12g, bạch chỉ 12g, bạch thược 12g, nhục quế 12g, cát cánh 24g, chỉ xác 20g, hậu phác 16g, bán hạ 12g, cam thảo 12g, đương quy 12g, xuyên khung 12g, phụ tử 12g. Các vị tán bột. Dùng sinh khương 3 lát, thông bạch 3 củ đun với 2 bát nước, cạn còn 1 bát, bỏ bã uống nóng với thuốc bột 16g/1 lần rồi đắp chăn ấm cho ra mồ hôi.

Khương hoạt.

Nếu thấp lại kiêm nhiệt gây đại tiện bí: Dùng bài Gia vị xương bá tán: khương hoạt 6g, độc hoạt 6g, sinh địa 8g, hoàng bá 8g, đương quy 8g, cam thảo 4g, phòng kỷ 6g, binh lang 6g, bạch truật 4g, xương truật 4g, tri mẫu 8g, xích thược 6g, ngưu tất 8g, mộc thông 4g, mộc qua 6g. Các vị đun với 6 bát nước, cạn còn 2 bát, bỏ bã, chia uống 2 lần.

Nếu hình thể hư uống bài Đương quy niêm thống thang: đương quy 8g, cam thảo 20g, nhân trần 20g, khổ sâm 8g, cát căn 8g, bạch truật 12g, trư linh 12g, tri mẫu 12g, khương hoạt 20g, hoàng cầm 20g, nhân sâm 8g, thăng ma 8g, xương truật 8g, trạch tả 12g, phòng phong 12g. Các vị trên đun với 8 bát nước, cạn còn 3 bát, bỏ bã, uống làm 3 lần.

Thuốc dùng ngoài: 2 lạng phàn thạch đun với 15 bát nước, ngâm chân khi nước còn nóng.

Nếu tinh thần mê man, nói năng lảm nhảm cho uống bài Ngô thù mộc qua gia sam mộc thang: ngô thù 4g, binh lang 12g, sam mộc 12g, mộc qua 6g, sinh khương 5 lát. Các vị đun với 3 bát nước, cạn còn 1 bát, bỏ bã, uống làm 1 lần. Nếu hàn nhiều gia phụ tử 10g; nếu kiêm nhiệt gia tri mẫu 10g, hoàng bá 5g.

Lương y: Thảo Nguyên

Đông y trị đau thắt ngực

Theo y học cổ truyền, cơn đau thắt ngực thuộc phạm vi "tâm thống" (đau tim). Bệnh sinh ra là do khí tạng thận không đầy đủ, dương khí của thận thiếu thì dương khí của ngũ tạng đều hư. Khi thận âm không đầy đủ, thủy không dưỡng mộc sinh ra tâm can âm hư, tâm can hỏa vượng lâu ngày làm tổn thương khí huyết dẫn đến khí khuyết lưỡng hư.

Như vậy đặc điểm của bệnh tâm thống là gốc hư, ngọn thực, do đó lấy "ích khí hoạt huyết" là cách trị cơ bản của bệnh này.

Y học cổ truyền chia tâm thống ra nhiều thể khác nhau, tùy thể mà dùng các bài thuốc khác nhau như dưới đây:

Thể khí hư huyết ứ

Chứng trạng: Ngực sườn trướng tức, hụt hơi, đau nhói vùng trước tim, tinh thần mệt mỏi, tứ chi vô lực, tự đổ mồ hôi, ăn kém, chất lưỡi tối hoặc ban ứ, rêu mỏng, mạch tế sáp.

Qua lâu.

Bài thuốc: Hoàng kỳ 30g, đẳng sâm 15g, đương quy 20g, xuyên khung 15g, đào nhân 10g, xích thược 15g. Sắc uống ngày 1thang, chia 3 lần uống khi thuốc còn ấm.

Thể khí trệ huyết ứ

Chứng trạng: Ngực trướng đầy đau, ngột hơi, đau nhói vùng trước tim hoặc lan ra tay, mặt môi đỏ sẫm, lưỡi tím tối, mép lưỡi có ban ứ, mạch huyền tế sác hoặc kết đại.

Bài thuốc: Đẳng sâm 20g, đào nhân 10g, hồng hoa 10g, xích thược 15g, uất kim 15g, huyền hồ 12g, hương phụ 12g, xuyên khung 12g. Sắc uống như trên.

Thể tâm tỳ hư

Chứng trạng: Tức ngực, tim hồi hộp, đoản hơi, tiếng nói nhỏ, tinh thần mệt mỏi, tứ chi vô lực, sắc mặt trắng, mất ngủ, hay quên, hoảng sợ, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch trầm tế.

Bài thuốc: Đẳng sâm 15g, hoàng kỳ 15g, phục thần 10g, toan táo nhân 10g, đương quy 10g, bạch truật 10g, mộc hương 5g, chích cam thảo 3g, đan sâm 20g.

Thể âm dương hư

Chứng trạng: Vùng ngực đau kéo dài có khi thành cơn, ngạt thở, tim hồi hợp, đoản hơi, sắc mặt xanh tím, mệt mỏi bơ phờ, tự ra mồ hôi, chân tay lạnh, lưỡi nhạt, chất tím, rêu lưỡi trắng hoặc nhớt trắng, mạch tế hoãn hoặc kết đại.

Bài thuốc: Qua lâu bì 10g, phỉ bạch 10g, chỉ thực 10g, bán hạ chế 10g, hậu phác 10g, quế chi 6g, đan sâm 15g, chích cam thảo 3g. Sắc uống ngày 1 thang.

Thể đàm trọc ngăn trở

Chứng trạng: Ngực bí bụng đầy, trướng đau, tim hồi hộp hụt hơi, miệng đắng, bụng trướng ăn ít hoặc kèm ho, váng đầu, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch hoạt sác.

Bài thuốc: Hoàng liên 3g, thạch xương bồ 10g, bán hạ chế 10g, ý dĩ nhân 15g, phục linh 10g, đan sâm 20g, xích thược 15g, trần bì 6g. Sắc uống ngày 1 thang.

Lương y Vũ Quốc Trung